Thứ Năm, 30 tháng 6, 2011

Andy Williams - someday there'll be

I'd rather be a forest than a street...


A time for us


Autumn leaves

El condor pasa


Love is a many splendored thing

Love story


Moon river


Speak softly love


Sweet memory


The days of wine and roses

The impossible dream


The way you look tonight

Thứ Hai, 27 tháng 6, 2011

Don McLean, Till tomorrow

... life began again
The day you took my hand


American pie



And I love you so



Babylon



Empty chair



Everybody loves me, baby



Grave



Till tomorrow



Vincent



Winter wood


And i love you so
The people ask me how
How i live till now
I tell them i don't know
I guess they understand
How lonely life has been
But life began again
The day you took my hand

And yes i know how lonely life can be
The shadows follow me
And the night won't set me free
But i don't let the evening get me down
Now that you're around me

And yes i know how lonely life can be
The shadows follow me
And the night won't set me free
But i don't let the evening get me down
Now that you're around me

And i love you so
The people ask me how
How i live till now
I tell them i don't know


TƯ LIỆU:
http://nhacso.net/sang-tac-trinh-bay/don-mclean-6582-1-3.html

Thứ Năm, 23 tháng 6, 2011

Tuyết - K.Paustovsky

24.9.2009

Tachiana Petrovna dọn đến nhà cụ Potapov được một tháng thì cụ mất. Nàng ở lại một mình với đứa con gái nhỏ là Varia và người vú già.

Ngôi nhà nhỏ, chỉ có ba gian, ở trên một ngọn đồi trông xuống con sông phía Bắc ngay đầu tỉnh lị. Sau nhà, bên kia khu vườn đã trụi lá là một rừng bạch dương phi màu trắng bạc. ở đó, từ sáng đến tối, lũ quạ kêu quàng quạc, bay thành từng đám mây đen trên những ngọn cây trần trụi báo hiệu trời xấu.

Từ khi rời Moskva, Tachiana mãi vẫn không sao quen được cái tỉnh lị đìu hiu với những ngôi nhà nhỏ bé, những cánh cửa hàng rào kêu ken két, những buổi tối vắng lặng, nghe rõ cả tiếng ngọn đèn dầu ho nổ lép bép. "Mình ngốc quá! - Nàng nghĩ - Không dưng đi bỏ Moskva, nhà hát và bè bạn! Đáng lẽ phải đưa Varia đến với bà vú ở Puskino, nơi đó chưa bị máy bay bắn phá lần nào, còn mình thì cứ việc ở lại Moskva. Trời, mình thật ngốc!".

Nhưng không thể trở lại Moskva nữa rồi, Tachiana quyết định sẽ biểu diễn trong các trạm quân y - trong thị xã này có vài trạm - và nàng cảm thấy yên tâm. Nàng còn thấy thích cái tỉnh lỵ ấy nữa là khác, nhất là khi đông về và tuyết xuống phủ đầy. Ngày lại ngày, êm dịu và xám ngắt. Sông mãi chưa đóng băng, mặt nước màu xanh lá cây bốc khói. Tachiana quen dần với tỉnh lị và cả với ngôi nhà không phải của mình. Nàng đã quen chiếc dương cầm lạc giọng, những tấm ảnh úa vàng trên tường chụp những thiết giáp hạm cổ lỗ bao vệ bờ biển. Trước kia, cụ Potapov làm thợ máy tàu biển. Trên cái bàn giấy phủ dạ xanh của cụ có đặt mô hình tuần dương hạm "Grômôbôi", trên tàu đó cụ đã làm việc, Varia không được phép sờ mó vào mô hình ấy. Và nói chung, không được sờ mó vào bất cứ vật gì. Tachiana biết cụ Potapov có con trai đang phục vụ ở trong hạm đội "Hắc Hải". Trên bàn, bên cạnh mô hình tuần dương hạm, có bức ảnh của anh. Đôi lúc, Tachiana cầm bức ảnh lên ngắm nghía rồi nhíu đôi lông mày thanh thanh lại, nghĩ ngợi. Nàng cứ có cảm giác là đã gặp anh ở một nơi nào đó, nhưng đã lâu lắm rồi, trước cả cuộc hôn nhân không toại nguyện của nàng. Nhưng ở đâu? Và khi nào nhỉ? Anh lính thuỷ nhìn nàng bằng đôi mắt bình thản hơi có vẻ chế nhạo, như muốn hỏi: "Thế nào chị? Chẳng lẽ chị vẫn chưa nhớ ra là chúng ta đã gặp nhau ở đâu hay sao?"

- Không, tôi không nhớ - nàng trả lời khe khẽ.

- Mẹ ơi, mẹ nói chuyện với ai thế? - Varia từ phòng bên hỏi to.

- Với cái dương cầm con ạ - Tachiana mỉm cười đáp lại.



Vào giữa mùa đông bắt đầu có những lá thư do cùng một bàn tay viết gửi cho cụ Potapov, Tachiana xếp những lá thư ấy lại trên bàn.

Một lần đang đêm nàng chợt thức giấc. ánh tuyết mờ mờ chiếu vào cửa kính. Con mèo xám Arkhiv của cụ Potapov để lại đang ngáy khò khò trên đi văng. Tachiana khoác áo choàng mỏng vào phòng làm việc của cụ Potapov và đứng môt lát bên cửa sổ. Một con chim lặng lẽ bay vút ra khỏi cây làm tuyết đổ xuống. Tuyết bay như bụi trắng phủ một lớp mỏng trên mặt kính. Tachiana thắp ngọn nến trên bàn, ngồi xuống ghế bành và nhìn mãi ngọn nến. Ngọn nến cũng chả buồn lay động. Sau đó nàng thận trọng lấy ra một bức thư, bóc phong bì, nhìn chung quanh rồi bắt đầu đọc: " Cha yêu quý, thế là con đã nằm bệnh viện được một tháng, - nàng đọc - Vết thương không nặng lắm. Đại thể là nó đang lên da non. Xin cha đừng lo lắng và chớ hút hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác. Con van cha đấy!" " Con luôn nhớ đến cha, - Tachiana đọc tiếp - đến ngôi nhà của cha con ta, đến tỉnh lị của chúng ta. Tất cả những cái đó xa xăm quá, tưởng như ở đâu mãi chân trời. Con nhắm mắt lại và thấy con mở cửa hàng rào, bước vào vườn. Mùa đông, tuyết xuống, nhưng con đường nhỏ dẫn tới phong đình bên dốc đã được quét dọn sạch sẽ, còn băng bụi phủ đầy những khóm tử đinh hương. Lò sưởi trong phòng kêu tí tách. Khói bạch dưng thoang thoảng. Cây dương cầm cuối cùng đã được lên dây lại và cha đã cắm những cây nếnvàng hình xoắn ốc con mua từ Leningrad vào những chân đèn. Và vẫn những bản nhạc ấy trên chiếc đàn? Bạn tự khúc của vở nhạc kịch " Con đầm Pích" và tình ca " Trên bờ cõi Tổ quốc xa xôi." Không biết quả chuông treo ở cửa có kêu không? Thế là con vẫn chưa kịp chữa. Chả lẽ rồi con sẽ lại được gặp tất cả những cái đó? Chả lẽ rồi con lại được lấy nước giếng trong bình mà rửa sạch bụi đường xa? Cha nhớ không? Ôi,nếu cha biết được rằng từ chốn xa xôi này con yêu mến tất cả những cái đó biết chừng nào? Cha đừng ngạc nhiên, nhưng con nói với cha một cách thật nghiêm túc rằng con nhớ đến những cái đó trong những phút ác liệt nhất của trận đánh. Con biết rằng con đang bảo vệ không riêng gì bờ cõi đất nước mà cả cái góc nhỏ bé và thân yêu ấy trong lòng con: tức là cả cha, cả khu vườn nhà ta, cả những chú bé tóc bù xù trong làng ta, cả những khu rừng bạch dương bên kia sông và cả con mèo Arkhiv nữa. Xin cha đừng cười và đừng lắc đầu cha nhé. Có thể khi ra viện con sẽ được về nhà ít lâu. Điều đó chưa chắc lắm. Tốt hơn là cha đừng đợi".

Tachiana ngồi mãi bên bàn, mắt mở to nhìn qua cửa sổ, nơi bình minh bắt đầu hé lên trong màu xanh dày đặc và nghĩ rằng rồi đây, ngày một ngày hai, một người không quen biết có thể từ mặt trận trở về ngôi nhà này và người đó sẽ phải đau khổ khi phải gặp những người xa lạ ở đây và phải trông thấy mọi vật hoàn toàn không giống như ý người đó muốn.



Sáng hôm sau, Tachiana sai Varia lấy xẻng ra dọn con đường dẫn tới phong đình trên bờ dốc. Cái lầu ấy đã hoàn toàn cũ nát. Những cột gỗ mốc meo, rêu phủ đầy. Tachiana tự tay chữa lấy quả chuông con treo trên cửa. Trên chuông có một hàng chữ đúc đến buồn cười "Ta treo trên cửa - hãy giật cho vui!" Tachiana đụng vào chuông, nó kêu lên lanh lảnh. Con mèo Arkhiv khó chịu, ve vẩy đôi tai, rồi bực dọc đi ra khỏi nhà; có lẽ nó cho tiếng chuông vui vẻ kia là càn rỡ. Trưa hôm đó, Tachiana, má ửng hồng, cười nói ầm ĩ, mắt quầng thâm vì xúc động, từ ngoài phố về dắt theo một ông lão lên dây đàn, một người Tiệp dã Nga hoá. Ông làm nghề chữa đèn cồn. đèn dầu ho, búp bê, ắccoocđêông và lên dây đàn dương cầm. Ông lão có cái họ nghe rất buồn cười: " Neviđan" (của lạ). Sau khi lên dây đàn, ông già nói rằng chiếc đàn cũ nhưng rất tốt. Không cần ông nói Tachiana cũng biết. Khi ông lão đã ra về, Tachiana cần thận lục khắp các ngăn kéo bàn và tìm thấy một gói nến to hình xoắn ốc. Nàng cắm vào các chân nến đặt trên dưng cầm. Tối đến, nàng thắp nến, ngồi chơi đàn, và tiếng nhạc tràn ngập ngôi nhà. Khi Tachianan ngừng chơi và tắt nến đi thì một làn khói thơm to ra khắp các phòng như quanh cây thông ngày hội. Varia không chịu được nữa.

- Sao mẹ lại đụng vào đồ vật của người khác? - Nó hỏi Tachiana - Mẹ cấm con, còn mẹ thì lại đụng vào đủ mọi thứ? Nào chuông, nào nến, nào đàn. Mẹ lại còn đặt những bản nhạc của người ta lên trên dương cầm nữa.

- Vì mẹ là người lớn, - Tachiana tr lời. Varia chau mày, ngờ vực nhìn mẹ. Lúc này Tachiana không giống người lớn một chút nào. Mặt nàng tươi hẳn lên và nom giống cô gái tóc vàng đã đánh rơi chiếc hài pha lê trong hoàng cung. Chính Tachiana đã kể cho Varia nghe chuyện cô gái ấy.



Ngồi trên tàu hoả, trung uý Nicolai Potapov đã tính rằng anh chỉ có thể ở với cha nhiều lắm là một ngày đêm. Hạn nghỉ phép thì ngắn mà đi đường đã chiếm gần hết thời gian. Tàu hoả tới thành phố vào ban ngày. Ngay tại nhà ga, trung uý được người quen làm trưởng ga cho biết cha anh mất đã một tháng và một nữ ca sĩ trẻ cùng đứa con gái đang ở nhà anh.

- Chị ta người tản cư, - ông trưởng ga nói.

Nicôlai im lặng nhìn ra ngoài cửa kính, nơi những hành khách mặc áo bông, đi ủng dạ, tay cầm ấm nước, đang chạy. Anh thấy chóng mặt.

- Vâng, - trưởng ga nói - Cụ nhà là người thật tốt bụng. Thế mà cụ chết đi mà không kịp gặp con trai.

- Bao giờ lại có tàu ra, thưa bác? - Nicôlai hỏi.

- Năm giờ sáng mai, - ông lão nói, rồi im lặng một lát và nói tiếp - Anh lại đàng tôi chơi. Bà lão nhà tôi sẽ pha trà, làm cơm anh ăn. Anh không phải về nhà nữa đâu.

- Cám ơn bác. - Nicôlai trả lời và bước ra. Ông trưởng ga nhìn theo, lắc đầu.



Nicôlai đi qua tỉnh lị về bờ sông. Phía trên là một bầu trời xanh xám. Tuyết lơ thơ, bay chênh chếch giữa trời và đất. Mấy con quạ bước đi bước lại trên con đường phân rác bẩn thỉu. Trời sẩm tối. Gió thổi từ bên kia bờ sông, từ những cánh rừng, làm anh chảy nước mắt. "Làm sao được! - Nicôlai nói! - Chậm mất rồi! Và giờ đây cái tỉnh lị này, cả con sông và ngôi nhà - mọi thứ đối với ta gần như xa lạ!" Anh ngoảnh nhìn sườn đồi bên kia thành phố. ở đó hiện ra lờ mờ ngôi nhà trong khu vườn tuyết phủ. Từ ống khói to ra, khói bị gió cuốn về cánh rừng bạch dương. Nicôlai thong thả bước về phía nhà mình. Anh định không vào nhà mà chỉ đi ngang thôi, cũng có thể rẽ vào vườn đứng một lát trong cái lầu nghỉ chân cũ kĩ. Thật khó chịu khi nghĩ rằng những người thờ xa lạ đang ở trong ngôi nhà của cha anh. Tốt hơn là chẳng nhìn thấy gì hết để khỏi phải đau lòng, cứ đi đi và lãng quên dĩ vãng. " ồ - Nicôlai nghĩ bụng - con người mỗi ngày một trưởng thành, và nhìn sự vật chung quanh một cách nghiêm khắc hơn."

Nicôlai về đến nhà khi trời tối. Anh nhẹ nhàng mở cửa vào vườn, nhưng nó vẫn kêu ken két. Mảnh vườn như giật mình. Tuyết đọng trên cành rơi xào xạc. Anh nhìn quanh. Trên con đường nhỏ dẫn tới phong đình, tuyết đã được dọn sạch. Nicôlai vào trong lầu, đặt hai tay lên cái lan can cũ kĩ. Đằng xa, bên kia rừng, bầu trời hồng lên mờ nhạt: có lẽ trăng đã lên sau những đám mây. Nicôlai cất mũ, lấy tay vuốt tóc. Chung quanh yên lặng, chỉ ở dưới chân đồi, mấy người đàn bà xách những chiếc xô rỗng kêu long xong đi đến lỗ băng lấy nước. Anh chống cùi tay trên lan can, nói khẽ:

- Có thể nào lại như thế?

Có ai đó nhè nhẹ chạm vào vai anh. Nicôlai ngoảnh lại. Đằng sau anh là một thiếu phụ trẻ, có khuôn mặt xanh xao và nghiêm nghị, đầu trùm khăn len. Thiếu phụ nhìn anh bằng đôi mắt sâu thẳm và chăm chú. Trên mi mắt và má nàng những bông tuyết tan dần. Có lẽ đó là tuyết trên cành rơi xuống.

- Anh đội mũ vào kẻo cảm lạnh đấy! - Thiếu phụ nói khẽ - Mời anh vào nhà đi. Không nên đứng ở đây.

Nicôlai im lặng. Thiếu phụ nắm lấy tay áo của anh và dẫn anh theo những con đường nhỏ đã dọn sạch. Đến bên thềm Nicôlai dừng lại. Xúc động làm anh nghẹn ngào, không sao thở được. Thiếu phụ vẫn nói khe khẽ:

- Không sao, xin anh đừng ngại vì chuyện tôi ở đây. Cảm giác đó sẽ qua ngay thôi. Nàng giậm chân để rũ tuyết bám vào giày. Tức khắc quả chuông ở phòng mắc áo reo lên lanh lảnh đáp lại. Nicôlai thở dài thực mạnh, lấy hơi. Anh bước vào nhà, vẻ bối rối, lẩm bẩm điều gì. ở phòng ngoài, mới cởi áo choàng anh đã ngửi thấy mùi khói bạch dương thoang thoảng và nhìn thấy con mèo Arkhiv. Nó ngồi ngáp dài trên đi văng. Một cô bé tóc bím đứng bên đi văng và nhìn anh bằng cặp mắt sung sướng, nhưng không phi nhìn mặt anh mà nhìn mấy viền vàng trên tay áo anh.

- Vào đây, anh! - Tachiana nói và dẫn anh vào bếp.

Trong bếp có bình giếng nước lạnh và treo một chiếc khăn vải lanh quen thuộc thêu hình những chiếc lá sồi. Tachiana trở ra. Đứa con gái mang xà phòng cho Nicôlai và nhìn anh cởi áo, rửa mặt. Nỗi bối rối trong lòng anh vẫn chưa tan.

- Mẹ cháu là ai vậy? - Anh hỏi đứa bé và đỏ ửng mặt. Anh hỏi câu đó cho có hỏi mà thôi.

- Mẹ cháu tưởng mẹ cháu là người lớn. - Con bé thì thầm với một vẻ bí ẩn.- Nhưng mẹ cháu chẳng phi là người lớn tẹo nào. Mẹ cháu còn xoàng hơn cả cháu nữa cơ.

- Tại sao vậy? - Anh hỏi Nhưng con bé không trả lời, nói cười và chạy ra ngoài.



Suốt buổi tối anh không sao xua đuổi được cảm giác nhẹ nhàng mà sâu lắng. Mọi vật trong nhà xếp đặt đúng theo ý anh muốn. Vẫn những bản nhạc ấy trên dương cầm, vẫn những cây nến hình xoắn ốc đang cháy, nổ tí tách và chiếu sáng phòng làm việc của cha anh. Cả những bức thư anh gửi từ bệnh viện về cũng nằm trên bàn, dưới chiếc địa bàn cũ mà ngày trước ông cụ vẫn thường dùng chặn lên thư. Uống trà xong, Tachiana dẫn Nicôlai ra sau cánh rừng thăm mộ cha anh. Mặt trăng mờ mờ đã lên cao. Những cây bạch dưng tỏa sáng yếu ớt trong ánh trăng ngả bóng nhẹ xuống tuyết. Đêm đã khuya, Tachiana ngồi trước dương cầm, nhẹ nhàng lựa phím đàn, rồi ngoảnh lại nhìn Nicôlai và nói:

- Tôi cứ có cảm giác là tôi đã gặp anh ở đâu rồi.

- Vâng, cũng có lẽ - anh đáp.

Nicôlai nhìn thiếu phụ. ánh nến ở bên cạnh soi sáng nửa khuôn mặt nàng. Anh đứng dậy đi đi lại lại trong phòng rồi dừng lại.

- Không, tôi không nhớ ra được! - Anh nói giọng trầm trầm .

Tachiana ngoảnh lại hốt hoảng nhìn Nicôlai nhưng không nói gì hết. Nàng đã sửa soạn chỗ ngủ cho Nicôlai trên chiếc đi văng trong phòng làm việc, nhưng anh không sao chợp mắt được. Mỗi phút trong ngôi nhà này đối với anh thực sự quý báu và anh không muốn bỏ mất phút nào. Anh nằm lắng nghe bước chân rón rén của con mèo Arkhiv, tiếng đồng hồ tích tắc, tiếng thì thào của Tachiana với người vú già sau cánh cửa đóng. Rồi những giọng nói im bặt, người vú già đã đi, những vệt sáng ở dưới cánh cửa vẫn không tắt. Anh nghe thấy các trang giấy loạt soạt: chắc Tachiana còn đọc sách. Anh đoán nàng thức cốt để gọi anh dậy cho kịp tàu. Anh muốn nói với nàng rằng anh cũng không ngủ, nhưng anh không dám gọi.



Bốn giờ sáng, Tachiana khe khẽ mở cửa và gọi Nicôlai.Anh cựa mình.

- Anh dậy đi thôi, đến giờ rồi,- nàng nói - Tôi rất tiếc phải đánh thức anh.

Tachiana tiễn anh ra ga khi thành phố đang yên giấc. Sau hồi chuông thứ hai họ từ giã nhau. Tachiana đưa cả hai tay cho Nicôlai và nói:

- Anh nhớ viết thư nhé! Giờ đây chúng ta như người thân. Phải vậy không anh?
Nicôlai không trả lời, anh chỉ gật đầu.



Mấy hôm sau, Tachiana nhận được một bức thư của Nicôlai viết ở dọc đường: " Tôi đã nhớ ra chúng ta gặp nhau ở đâu - anh viết -nhưng tôi không muốn nói với em khi còn ở nhà. Em có nhớ Krưm năm hăm bảy không? Mùa thu. Những cây tiêu huyền cổ thụ ở công viên Livađia. Trời u ám, biển nhợt nhạt. Tôi đi theo con đường nhỏ tới Orêanđa. Trên chiếc ghế dài bên đường có một thiếu nữ đang ngồi. Cô ta chừng 16 tuổi. Trông thấy tôi, cô ta đứng dậy và đi về phía tôi. Khi chúng tôi đi ngang nhau, tôi liếc nhìn cô. Cô ta đi qua tôi rất nhanh, nhẹ nhàng, tay cầm một cuốn sách mở rộng. Tôi dừng lại, nhìn theo cô ta rất lâu. Thiếu nữ đó là em. Tôi không thể nhầm được. Tôi nhìn theo em và cảm thấy rằng người con gái vừa đi qua bên cạnh tôi, người có thể làm tan vỡ cả đời tôi mà cũng có thể đem lại hạnh phúc cho tôi. Tôi hiểu rằng mình có thể yêu người con gái ấy đến quên cả thân mình. Lúc đó tôi đã biết rằng phải tìm được em dù phi trả bằng giá nào. Tôi nghĩ vậy, nhưng vẫn đứng lì tại chỗ. Vì sao - tôi chẳng biết. Từ ngày ấy tôi yêu Krưm và con đường nhỏ, nơi tôi đã gặp em trong giây lát và mất em vĩnh viễn. Nhưng cuộc đời đã thương tôi và tôi lại được gặp em. Nếu mọi việc ổn thoả và em cần đến cuộc đời tôi, thì tất nhiên nó sẽ là của em. À, tôi đã thấy bức thư của tôi bị bóc ra để trên bàn. Tôi đã hiểu tất cả và chỉ biết cám ơn em từ nơi xa này." Tachiana đặt lá thư xuống, đôi mắt mơ màng nhìn qua cửa sổ ra mảnh vườn tuyết phủ, đoạn thốt lên:

- Trời, mình có ở Krưm bao giờ đâu? Chưa bao giờ! Nhưng lúc này cái đó có gì quan trọng? Và để cho anh ấy tuyệt vọng làm gì? Và cả mình nữa!

Nàng cười, đưa tay lên che mắt. Ngoài cửa sổ ánh tà dương mờ nhạt vẫn tỏa sáng, mãi không sao tắt được.

Thứ Hai, 13 tháng 6, 2011

Cánh buồm đỏ thắm (chương 7) - Alexandre Grin

11.10.2009


Một buổi sớm mai. Sương mờ mờ trắng đục bao phủ khắp khu rừng thấp thoáng những hình thù kỳ dị. Một người thợ săn vừa rời đống lửa của mình đi dọc theo bờ sông. Qua những hàng cây, khoảng trời trên sông lộ ra thoáng đãng. Nhưng người thợ săn cần cù không đi về phía ấy mà lần theo chân con gấu vừa đi về phía núi.

Bỗng một âm thanh bất ngờ vút qua đám cây cối, đột ngột như một cuộc rượt đuổi náo động, đó là tiếng kèn cơ-la- ri-nét cất lên. Người nhạc công bước ra boong ràu, thổi một điệu nhạc buồn buồn, lắp đi lắp lại. Tiếng kèn run rẩy nghe như giọng ai đang cố giấu nỗi niềm trắc ẩn. Tiếng kèn nghe mạnh hơn và bỗng chuyển sang âm điệu tươi vui như thoáng nở nụ cười rồi im bặt. Tiếng vọng xa xa mơ hồ lặp lại âm điệu ấy.

Người thợ săn nhận thấy dấu vết một cành cây gãy và đi về chỗ có nước. Sương vẫn chưa tan, trong sương mù ẩn hiện bóng hình một can tàu lớn đang từ từ rẽ vào cửa sông. Những lá buồm cuốn đã được mở rộng, buông diềm, căng ra, che lấp những cột buồm như những tấm lá chắn bất lực có nhiều nếp gấp to. Có tiếng người nói và tiếng bước chân đi lạ. Làn gió trên bờ uể oải thổi vào những cánh buồm. Cuối cùng hơi ấm của mặt trời đã có tác dụng. Sức gió tăng lên làm tan sương mù, gió thổi căng phồng những cánh buồm đỏ thắm. Ánh hồng lung linh trên nền trắng của cột buồm và dây dợ. Tất cả đều màu trắng, trừ những cánh buồm đang căng ra là màu đỏ, màu của niềm vui sâu sắc.



Người thợ săn đứng trên bờ giụi mắt mãi cho đến khi tin rằng mình đã không nhìn lầm. Con tàu đã khuất sau quãng sông uốn khúc mà anh ta vẫn đứng ngây ra nhìn theo. Một lúc sau, anh ta khẽ nhún vai, rồi tiếp tục lần theo vết chân gấu.

Khi con tàu Bí mật đang xuôi theo dòng sông, Grây tự tay mình cầm bánh lái, không để ai khác làm việc đó vì anh sợ tàu mắc phải những bãi cát ngầm. Pan-ten ngồi bên cạnh, anh vận chiếc áo dạ mới, đội chiếc mũ nới, cạo râu nhẵn nhụi, vẻ mặt đăm chiêu. Anh vẫn chẳng thấy có điều gì liên quan giữa mục đích thật sự của Grây và những cánh buồm đỏ thắm.

- Bây giờ, - Grây nói, - khi cánh buồm của tôi đang rực đỏ, gió thổi khoan thai, lòng tôi tràn ngập một niềm vui còn lớn hơn ca? nỗi mừng của chú voi trông thấy người ta đem thức ăn tới, tôi mới cố gắng giải thích cho anh hiểu những ý nghĩ của tôi, như lúc còn ở Li-xơ tôi đã hứa. Anh nên lưu ý rằng tôi không hề coi anh là ngu đần hay ương ngạnh, không, anh là một thuỷ thủ mẫu mực. Điều đó quý lắm. Nhưng cũng như phần lớn mọi người, anh đã theo những chân lý giản đơn qua lớp kính dày đặc của cuộc đời, chúng kêu to lên mà các anh không nghe thấy. Tôi chỉ làm một việc đang tồn tại như ý niệm cổ xưa về cái đẹp hão huyền, một việc thật ra có thể thực hiện được dễ dàng như một cuộc dạo chơi ngoài thành phố. Lát nữa anh sẽ nhìn thấy một người con gái, người ấy không thể không gặp gỡ bạn đời của mình một cách nào khác ngoài cách mà anh đang nhìn thấy.

Anh giải thích ngắn gọn cho Pan-ten nghe điều mà chúng ta đều biết rõ, rồi kết thúc bằng những lời thế này:

- Anh thấy đấy, ở đây số phận, ý chí, tính tình của con người đã gặp gỡ hoà hợp như thế nào. Tôi đang đến với người con gái chỉ chờ đợi tôi, còn tôi cũng không muốn một ai khác ngoài cô ấy, có lẽ chính vì nhờ cô ấy mà tôi đã hiểu được một chân lý giản đơn. Chân lý đó là cần phải tạo ra những điều kỳ diệu bằng chính bàn tay của mình. Nếu đối với một người nào đó, kiếm được tiền là quý nhất, thì có thể dễ dàng cho anh ta đồng tiền. Nhưng nếu khi tâm hồn con người ấp ủ hạt giống của một cái cây nồng thắm là sự diệu kỳ, thì hãy tạo cho anh ta điều đó, nếu ta có thể làm được. Khi đó ca? anh ta và ca? ta cũng sẽ có một tâm hồn mới. Khi người cai ngục tự tay mình tha? tù nhân, khi một nhà tỉ phú tặng cho viên thư ký một toà biệt thự, một cô đào hát và một két bạc, khi một kỵ sĩ kìm con ngựa đua của mình lại để chờ con ngựa khác không gặp may thì lúc đó mọi người đều thấy đấy là chuyện tốt lành và vô cùng kỳ lạ. Nhưng còn có những điều không kém phần kỳ lạ hơn: đó là nụ cười, niềm vui, lòng độ lượng và có thể chỉ là một lời cần thiết được nói đúng lúc. Có được cái đó có nghĩa là có tất ca?. Về phần tôi, thì buổi đầu tiên hôm nay A-xôn và tôi nhận ra nhau sẽ mãi mãi in trong tâm trí tôi với sắc màu của những cánh buồm đỏ thắm, những cánh buồm được tạo ra từ đáy sâu của một trái tim đã hiểu thế nào là tình yêu. Anh hiểu tôi rồi chứ?

- Vâng, thưa thuyền trưởng, tôi đã hiểu, - Pan-ten nói nhỏ, lấy chiếc khăn tay gấp cẩn thận ra lau bộ ria. - Tôi hiểu tất ca? rồi. Anh đã làm tôi xúc động. Tôi đi xuống khoang xin lỗi cậu Ních đây, hôm qua tôi vừa mắng cậu ta vì cậu ấy đánh đổ xô nước. Tôi sẽ cho cậu ấy ít thuốc lá của tôi, cậu ta hết thuốc hút rồi.

Grây hơi ngạc nhiên vì kết quả thiết thực chóng vánh của những lời mình vừa nói, anh chưa kịp nói gì thêm thì Pan-ten đã nện gót xuống cầu thang. Ở đó, thoáng nghe tiếng anh thở dài. Grây ngẩng nhìn lên cao. Phía trên đầu anh, những cánh buồm đỏ thắm đang lặng lẽ đón gió, các đường chỉ bắt ánh mặt trời lung linh như khói màu hồng. Con tàu Bí mật đã ra đến biển, mỗi lúc một xa bờ hơn. Trong lòng anh không gợn chút hồ nghi, lo âu, tâm hồn anh lúc này thanh thản, yên bình như cánh buồm lướt tới đích diệu kỳ, tràn đầy những ý nghĩ vượt trước cả lời nói.

Gần đến trưa, từ phía chân trời hiện lên làn khói của một chiếc tàu tuần dương. Con tàu quân sự đổi hướng đi và cách chừng nửa dặm thì cho phát lệnh: “Dừng lại!”.

- Các anh em, - Grây nói với thuỷ thủ, - họ không bắn chúng mình đâu, đường có sợ, họ chỉ không tin vào mắt mình đó thôi.

Anh ra lệnh cho tàu ngừng chạy. Pan-ten gào lên như đang có đám cháy để cho gió không thổi căng buồm. Con tàu dừng lại. Vào lúc ấy, một chiếc xuồng máy tách ra khỏi tàu tuần dương. Ngồi trên xuồng là mấy thuỷ thủ cùng với một viên trung úy đeo găng tay trắng. Viên trung úy bước lên boong tàu Bí mật, ngạc nhiên nhìn quanh rồi cùng Grây đi vào buồng thuyền trưởng. Khoảng một giờ sau, anh ta cáo từ, xuống xuồng ra về, vẫu vẫy tay, miệng cười tươi như vừa được thăng chức. Có lẽ lần này Grây còn gây được tác động mạnh mẽ hơn là với chàng Pan-ten chất phác, bởi vì lần này chiếc tàu tuần dương ấy đã đi chậm lại và bắn một loạt đại bác chào mừng, những đụn khói đen từ nòng súng bốc lên cao rồi toa? dần ra trên mặt nước yên lặng. Suốt ngày hôn đó, không khí trên tàu, từ phòng khách đến khoang máy, mọi người đều bàn tán về câu chuyện vừa gặp, về tình yêu. Người lính gác kho thuỷ lôi hỏi một thuỷ thủ đi ngang qua:

- Này, Tôm, cậu lấy vợ thế nào?

- Tớ túm lấy cô ta khi cô ta định nhảy qua của sổ tránh tớ. - Tôm đáp và kiêu hãnh xoắn ria mép.

Con tàu Bí mật lênh đênh ngoài biển khơi một lúc, đến khoảng trưa thì đất liền đã hiện ra xa xa. Grây cầm ống nhòm nhìn về phía làng Ca-péc-na. Nếu không vướng các mái nhà, chắc anh đã nhìn thấy A-xôn đang ngồi sau khung cửa sổ đọc sách. Cô ngồi đọc sách, trên trang giấy có con cánh cam nhỏ bò đi bò lại với vẻ như đấy là nhà của nó. Đã hai lần A-xôn thổi nó bay ra bệ cửa sổ, nhưng rồi nó lại bay đến như định nói điều gì. Với vẻ tin cậy, thoải mái, lần này nó đậu ngay bên ngón tay cô gái đang cầm vào mép trang sách, ở đây nó dừng lại ở chữ “nhìn kìa”, nó lại sợ bị hất đi lần nữa. Và qua? thật, suýt nữa thì nó khó tránh khỏi xuống đất và A-xôn đã kêu lên: “Lại mày hả, cánh cam!... ”- A-xôn vừa định hất nó xuống thì tình cờ cô ngửng đầu lên và nhìn thấy đằng sau mái nhà là mặt biển khơi xanh biếc với hình một con tàu trắng mang những cánh buồm đỏ thắm.

Cô gái rùng mình, ngửa đầu ra phía sau, lặng đi. Liền đó, cô đứng bật dậy, đầu óc quay cuồng, tim dường như ngừng đập, những giọt lệ xúc động kinh hoàng trào ra trên khoé mắt. Con tàu Bí mật lúc này đang vượt qua doi đất nhô ra ngoài biển, áp mạn trái vào bờ. Tiếng nhạc từ trên boong tàu nhẹ nhàng lan toa? xuống mặt biển xanh rờn. Dưới ánh hồng của cánh buồm đỏ thắm, tiếng nhạc du dương ngân nga theo điệu một bài ca quen thiộc: “Cạn chén đi, cạn chén đi các bạn, chúng ta mừng cho tình yêu... ” Bài ca bình dị, hân hoan, bộc lộ niềm xúc động mạnh mẽ.

Không nhớ rằng mình đã ra khỏi nhà thế nào, A-xôn chạy về phía biển, như được ngọn gió phóng túng nâng cô lên. Đến chỗ ngoặt cô dừng lại, gần như kiệt sức, chân khuỵu xuống, hơi thở đứt quãng, cô giậm chân chạy tiếp. Khi thì một mái nhà, khi thì bờ rào che khuất cánh buồm đỏ thắm. Những lúc đó A-xôn sợ con tàu ấy biến mất đi như một ảo ảnh, cô cố chạy nhanh qua vật che và lại trông thấy con tàu. Cô dừng lại, thở phào nhẹ nhõm.

Vào lúc ấy, ở làng Ca-péc-na đã xảy ra cảnh tượng khác thường, mọi người kinh ngạc, tất tưởi, nhốn nháo hết như trong làng vừa có trận động đất. Chưa bao giờ có chiếc tàu lớn như vậy đi vào bờ biển làng này. Con tàu lại mang chính cánh buồm mà lâu nay mọi người trong làng vẫn nhạo báng. Bây giờ thì những cánh buồm đỏ rực lên như một sự vật hiển nhiên, bác bỏ mọi quy luật của cuộc sống và lẽ phải. Đàn ông, đàn bà, trẻ con vội vã đỏ xô ra bờ biển. Dân làng gọi nhau í ới, va phải nhau, ngã dúi dụi, hò la ầm ĩ. Một lúc sau, sát bên bờ nước đã tụ tập ca? một đám đông. Và A-xôn xăm xăm chạy đến chỗ ấy.

Khi cô gái chưa đến, mọi người đua nhau nhắc đến tên cô với vẻ vừa lo âu, nôn nóng, vừa sợ hãi. Đàn ông nói nhiều hơn, cánh đàn bà chỉ xì xào bàn tán ra vẻ ghen tị. Lúc A-xôn vừa xuất hiện, mọi người đều im bặt, sợ hãi tránh cô, khiến cô chỉ còn lại một mình giữa nơi hoang vắng của bãi cát nóng bỏng. Cô bối rối, e thẹn, hạnh phúc, khuôn mặt hồng lên không kém gì cánh buồm kỳ diệu của cô , hai tay bất lực đưa vê phía con tàu lớn.

Một con thuyền tách ra khỏi tàu, những người chèo thuyền trông đến vạm vỡ rám nắng. Đứng giứa thuyền là chàng trai mà giờ đây cô mơ hồ cảm thấy như đã gặp từ thuở thơ ấu. Chàng trai mỉm cười nhìn cô, nụ cười thôi thúc và làm ấm lòng người. Trăm ngàn nỗi sợ hãi chợt đến với cô. Cô sợ có chuyện nhầm lẫn hay nhỡ có điều bí ẩn cản trở. Cô chạy xuống làn nước ấm áp, sóng nhẹ vỗ đung đưa, và kêu lên:

- Em ở đây, em ở đây! Em đây!



Đúng lúc ấy, Xim-me cầm đàn khoát tay ra hiệu. Cả dàn nhạc cùng hoà theo bài ca ban nãy, nhưng lần này nghe mạnh hơn, nghiêm trang hơn. Mây bay, sóng vỗ, ánh mặt trời lấp loáng trên mặt nước, lòng tràn ngập xúc động, cô gái hầu như không còn phân biệt được cái gì đang chuyển động: bản thân mình, con tàu hay chiếc thuyền - tất ca? đều quay cuồng, chao đảo.

Nhưng tiếng mái chèo khỏa nước đã ngay bên cô, cô ngẩng đầu lên. Grây cúi xuống, cô với tay bám vào người anh. A-xôn hơi lim dim mắt, rồi liền sau đó cô mở to mắt, mỉm cười nhìn gương mặt rạng rỡ của Grây, vừa thở gấp vừa nói:

- Hoàn toàn giống như em tưởng tượng.

- Em cũng thế, em của anh! - Grây nhấc bổng cô gái bị ướt đẫm lên thuyền và nói. - Thế là anh đã đến. Em có nhận ra anh không?

Cô gái khẽ gật đầu, hai bàn tay đặt vào eo lưng anh, mắt lim dim, lòng rộn ràng, náo nức. Hạnh phúc tràn ngập trái tim cô. Khi cô lại mở mắt ra thì từ con thuyền đang rập rình trên sóng đến con tàu Bí mật đang quay mũi lái - tất ca? đều là một giấc mơ, trong đó ánh mặt trời và mặt nước quấn quít đùa giỡn bên nhâu. Cô không còn nhớ mình đã được Grây dìu lên cầu thang như thế nào. Boong tàu trải thảm, ánh buồm đỏ thắm hắt xuống, trông như một góc vườn thượng uyển. Một lát sau, cô thấy mình đứng trong căn phòng thuyền trưởng trang hoàng lộng lẫy.

Từ trên boong tàu, tiếng nhạc lôi cuốn lòng người lại vang lên. A-xôn lại nhắm mắt, sợ rằng tất cả sẽ biến mất nếu cô nhìn. Grây cầm lấy tay cô gái, và cô tin cậy úp gương mặt giàn giụa nước mắt vào ngực người bạn đời đã xuất hiện một cách thần kỳ như vậy. Sững sờ xúc động bởi cái giây phút khó tả và vô cùng quý giá đã đến, cái giây phút mà không ai có được, Grây mỉm cười gượng nhẹ nâng cằm cô gái lên. Đây là khuôn mặt mà anh đã mơ ước bao lâu. Cuối cùng, đôi mắt cô gái lại mở to. Trong ánh mắt cô có tất cả những gì tốt đẹp nhất của con người.

- Anh cho bố em cùng đi với chúng mình chứ?- cô nói.

- Phải rồi. - Grây hôn cô thắm thiết sau câu tra? lời rắn chắc “phải rồi” khiến cô bật cười.

Bây giờ chúng ta hãy tránh xa họ vì biết rằng họ cần ở một mình bên nhau. Nhiều lời bằng nhiều thứ tiếng đã nói về những người yêu nhau, nhưng không bao giờ có thể truyền đạt được hết những gì họ đã nói vói nhau vào buổi đầu gặp gỡ ấy.

Cùng lúc ấy, trên boong tàu, dưới chân cột buồm, bên cạnh chiếc thùng gỗ nham nhở đã vẹt cả đáy, trong chứa thứ rượu trăm năm tuyệt ngon, tất cả thuỷ thủ đang chờ đợi thuyền trưởng của mình. át-vút đứng, Pan-ten thì ngồi một cách oai vệ, vẻ mặt tươi hơn hớn như vừa được tái sinh. Grây bước lên boong tàu, ra hiệu cho dàn nhạc nổi kèn trống. Anh bỏ mũ ra và là người đầu tiên cầm cấy chiếc cốc nhiều cạnh múc đầy thứ rượu nho thiêng liêng.

- Nào, các bạn... - anh uống một hơi cạn cốc rượu, đặt cốc xuống và nói, - Bây giờ thì chúng ta uống thôi, tất ca? đều uống, ai không uống, người ấy là kẻ thù của tôi.

Anh không phải nhắc lại lần thứ hai câu nói ấy. Trong lúc con tàu Bí mật dăng hết buồm lướt nhanh ra biển khơi, để làng Ca-péc-na mãi mãi kinh hoàng lại đằng sau, các thuỷ thủ vẫn còn chen chúc quanh thùng rượu còn quá cái cảnh vẫn thường diễn ra trong những ngày hội lớn.

- Thế nào, cậu có thấy thích không hở Lê-chi-ca? - Grây hỏi?

- Thưa thuyền trưởng, - Lê-chi-ca vừa nói vừa tìm chữ, - tôi cũng không biết tôi có thích không, nhưng qua? thật ấn tượng của tôi cần phải nghĩ kỹ mới nói được. Tổ ong và vườn hoa!

- Anh nói gì vậy?

- Thưa thuyền trưởng, tôi muốn nói rằng trong miệng tôi như có ai đặt mật ong và hoa vào. Chúc thuyền trưởng hạnh phúc. Và xin chúc mọi điều tốt lành cho cô gái của thuyền trưởng, thứ “hàng tuyệt vời” mà chúng ta đã được chở, phần thưởng cao nhất của con tàu Bí mật này.

Hôm sau, khi một ngày mới lại bắt đầu, con tàu đã ở cách xa làng Ca-péc-na. Nhiều thuỷ thủ ngủ ngay trên boong tàu sau khi uống thứ rượu tuyệt vời của Grây. Chỉ còn người lái tàu và trực ban là tỉnh táo. Xim-me đã ngà ngà say, ngồi ôm cây đàn vi- Ô-lông-xen ở đằng lái, vẻ mặt trầm ngâm. Anh nhẹ nhàng kéo mã vĩ làm ngân lên điệu nhạc diệu kỳ như không phải ở cõi trần này, và anh nghĩ về hạnh phúc...








http://vanhoc.xitrum.net/tieuthuyet/504_ch7.html

Thứ Ba, 7 tháng 6, 2011

Thơ Phạm Thu Yến




EM CHỒNG
Tặng Hoàn

Một thời là bạn của nhau
Giường tầng mình ở liền đầu giường ta
Anh trai đi học ở xa
Chúng mình đùa, cứ nhận là chị em
Thế rồi tình, thế rồi duyên
Mình thành em, để ta "quyền" chị dâu
Quý thương hơn thuở ban đầu
Cám ơn mình nhé chiếc cầu tình yêu.



GIẤC MƠ BUỒN

Một đêm anh tỉnh giấc
Choàng tay ôm vai em
Tiếng thở dài sâu lắm
"Anh mơ giấc mơ buồn.

Trong mơ anh đau khổ
Hình như em bạc tình.
Thế mới hay hạnh phúc
Khổ đau gần tấc gang.

Tỉnh dậy anh mừng rỡ
Biết chỉ là mơ thôi .
Vẫn thấy lòng bải hoải
Dẫu giấc mơ qua rồi .

Hãy giữ gìn em nhé
Hạnh phúc và tình yêu
Niềm tin không dễ có
Gửi nơi em rất nhiều...
"

Em biết anh chưa đọc
Bài thơ của Hai-nơ
Thế mà lời thơ ấy
Giống lời anh bây giờ.

Em lặng trong xúc động
Hôn lên vầng trán mơ
Sẽ xiết bao ân hận
Nếu một lần dối lừa.


LƠ ĐÃNG

Anh bảo em gì nhỉ
Ngọn gió nào mênh mông
Ngôi sao nào nhấp nháy
Đêm sâu đến vô cùng.

Đừng trách em lơ đãng
Quên không trả lời anh
Hạnh phúc đầu choáng ngợp
Bỡ ngỡ đến lạ lùng.

Lặng lẽ đi bên anh
Thấy mình như chim nhỏ
Và tình yêu là gió
Đưa em về không gian.

Đừng buồn nữa nghe anh
Em lạ lùng thế đấy
Có lẽ em khi ấy
Lơ đãng chẳng trả lời.

Vi em đang thầm nói
“Yêu anh nhiều anh ơi" .



VỚI EM

Dẫu biết rằng anh rất yêu em
Cũng có lúc lòng em trống trải
Yêu em đấy nhưng lòng anh e ngại
Trái tim đa cảm nơi em

Biết làm sao em vẫn dễ vui buồn
Rưng rưng mãi trước một bài hát cũ
Một câu thơ hay trái tim nức nở
Khát khao bao nhiêu trước một buổi bình minh

Sẽ ra sao nếu em chẳng là mình
Chỉ kiếm tiền, nuôi con, giặt giũ
Quên lãng hết ước mơ thời thiếu nữ
Có lẽ chẳng còn đáng được anh yêu

Nếu cho em chọn lại từ đầu
Người em chọn vẫn chỉ là anh đấy
Anh là cuộc đời em, giản đơn sâu sắc vậy
Đừng ghen hờn với trái tim em.



VÔ HÌNH

Có lẽ một thời em đã yêu anh
Tuổi thiếu nữ tình yêu vô hình lắm
Anh tha thiết, dịu dàng, xa thẳm
Gió mênh mang linh cảm không lời

Thôi hãy xa như tất cả đã xa rồi
Năm tháng khác và cuộc đời cũng khác
Lần gặp lại vì sao em muốn khóc
Quá khứ dịu dàng như chiều hạ sau mưa

Em đã yêu, đã lấy chồng, như ước mơ xưa
Em hạnh phúc trong tình yêu có thật
Chuyện ngày xưa một đôi lần bất chợt
Chỉ hiện về như cánh bướm trong mơ

Xin hãy dừng hỡi ngọn gió hư vô
Hãy dừng lại ở nơi cần dừng lại
Để ký ức trong ta dịu dàng mãi
Và hiện tại cuộc đời hạnh phúc chín trong tay


TƯ LIỆU:
Trang thơ Phạm Thu Yến