Thứ Bảy, 31 tháng 12, 2011

Danh ngôn 2011

Tháng Giêng

- Ai không quí trọng cuộc sống sẽ không xứng đáng với cuộc sống - Léonard de Vinci

- Bạn chiêm ngưỡng ngôi sao vì hai lẽ: thứ nhất vì nó sáng, thứ hai vì không hiểu nó - Victor Hugo

- Bạn đừng phán xét hạt tiêu theo hình dáng nhỏ bé của nó, hãy nếm nó và bạn sẽ cảm thấy cay cỡ nào - Ngạn ngữ Ả rập

- Biển không từ chối con sông nào cả - W.Shakespeare

- Biết giới hạn của hạnh phúc và yêu nó, đó chính là hạnh phúc - R.Rolland

- Biết thú nhận lỗi lầm là điều cao quí hơn là phủ nhận lỗi lầm đó - De Betz

- Có ba điều đạt tới hạnh phúc: thân thể khỏe mạnh, tinh thần thoải mái, trái tim trong sạch - A.Dumas

- Cái điều mà đứa trẻ phải học trước nhất, ấy là Tổ quốc và bà Mẹ nó - Jules Michelet





Tháng Hai

- Cái giá trị thật sự giống như con sông, càng sâu càng chảy êm - Halipha

- Cái giàu của tâm hồn là cái giàu duy nhất, tất cả các tài sản khác đều đầy rẫy đau khổ - Lucien

- Cây gỗ vừa tay ôm mọc lên từ cái mầm nhỏ, cái lầu chín tầng khởi từ hòn đất, cuộc đi ngàn dặm bắt đầu ở dưới gót chân - Lão Tử

- Chân lí như hạt kim cương, nó chiếu muôn mặt chứ không chỉ chiếu một mặt - Goethe

- Chiến trường thử thách người dũng cảm, cơn giận thử thách người khôn ngoan, khó khăn thử thách bạn bè - Ngạn ngữ Nga

- Chính nỗ lực muốn lên tới đỉnh cao chỉ bằng một bước nhảy đã tạo nên nhiều khổ đau trên thế giới này - W.Cobbett

- Chúng ta học đi bằng cách ngã, nếu không bao giờ ngã thì chúng ta không bao giờ đi được -R.T.Kiosaki

- Con người cần hai năm để học nói và sáu mươi năm để học được cách giữ gìn lời ăn tiếng nói - L.Fayvanghe





Tháng Ba

- Có của mà không kín đáo là gợi cho người lấy trộm. Có nhan sắc mà hay vuốt ve là gợi cho thiên hạ trêu ghẹo - Kinh Dịch

- Có hai bi kịch trong cuộc đời: một là không đạt được điều mong muốn, hai là chiếm đoạt được nó - Ngạn ngữ Đức

- Có trí óc minh mẫn chưa đủ, nguyên tắc chính là phải biết áp dụng một cách khôn khéo - Descartes

 - Có một nghịch lí: hạnh phúc thật sự chỉ đến khi bạn biết mạnh dạn cho đi chứ không phải nắm giữ thật chặt - C.Hoare

- Có lòng thành thật mà không biết quyền biến cũng là một cách nguy vong - Sách Diêm Thiết Luận

- Chỉ cần hiểu rằng phía trước không thể không có chướng ngại thì bạn sẽ trở nên khiêm tốn - S. Ferguson

- Con đường trải đầy lụa không bao giờ dẫn tới vinh quang - La Fontaine

- Con người đồng thời phải tạo ra và chế ngự được sự đam mê - J.Paul





Tháng Tư

- Con người ta có ba điều lầm lỗi dễ mắc phải: chưa đến lượt đã vội nói, điều đáng nói lại không nói và không nhìn vẻ mặt người khác mà đã nói - Khổng Tử

- Con tim có những lí lẽ mà lí trí không hề biết đến - Pascal

- Cuộc sống của ta đáng giá bằng những cố gắng bỏ ra - F.Mauriac

- Dù người ta có nói với bạn điều gì đi chăng nữa, bạn cũng hãy tin rằng cuộc sống là kì diệu và đẹp đẽ - G.Paustovski

- Dù việc gì xảy ra chăng nữa thì sự kiên trì và ý chí sẽ giúp ta vượt qua tất cả - P.Virgile

- Điều làm cho sự bình đẳng trở nên khó khăn là ta chỉ ao ước bình đẳng với kẻ cao hơn mình mà thôi - Henry Becque

- Đừng đợi cơ hội thuận tiện, phải biết tạo ra nó - P.S.Marden





Tháng Năm

- Giản dị là nét đẹp chủ yếu của vẻ đẹp đạo đức - L.Tolsstoi

- Gieo hành vi, gặt thói quen. Gieo thói quen gặt tính cách. Gieo tính cách gặt số phận - W.M.Thackeray

- Hạnh phúc không đến với những kẻ lười biếng – Sophocle

- Hãy bắt chước con chim đậu trên cành liễu yếu. Nó thấy cành sắp gãy nhưng vẫn vui vẻ hót vì biết rằng mình vẫn còn đôi cánh - Victor Hugo

- Hãy đặt niềm tin vào bản thân, rồi bạn sẽ có được sức mạnh chuyển núi dời non - Emily Guay

- Hãy yêu sự thật, nhưng phải biết tha thứ cho lỗi lầm – Voltaire

- Học vấn là tài sản vô hình của đàn ông, dung mạo là tài sản hữu hình của đàn bà - Lão Tuyên

- Khát vọng hạnh phúc là bẩm sinh của con người, vì vậy nó phải là cơ sở của đạo đức - F.Engels





Tháng Sáu

- Khát vọng vươn lên phía trước, đó chính là mục đích của cuộc sống - M.Gorki

- Khi mang những đóa hoa đi tặng người khác thì hương thơm sẽ ở lại trong tâm hồn anh - Saadi

- Khi ta không hàng động thì các thiên thần sẽ bỏ ta – Voltaire

- Khi đường đời gập ghềnh thì nhớ giữ tinh thần luôn bằng phẳng - Horace

- Khi không tìm được sự an lạc nơi chính mình thì tìm nó ở nơi khác chỉ hoài công - La Rochefoucauld
- Khi thành công, đời sẽ tha thứ cho mọi chuyện - Ngạn ngữ Pháp

- Khi sống sung túc, phẩm hạnh lớn nhất là sự điều độ. Cò khi gặp nạn, phẩm hạnh lớn nhất là sự kiên cường - F.Bacon

- Không có cái gì là dễ, nhưng rồi cái gì cũng trở nên dễ nếu ta biết tu trí, kiên tâm - A.Maurois





Tháng Bảy

- Không có chuyện cổ tích nào đẹp hơn câu chuyện do chính cuộc sống viết nên - H.Andersen

- Không đâu đẹp bằng quê hương của mình, thậm chí hoa cũng tỏa mùi hương đặc biệt - Kuprin


- Không một người thông minh nào ước muốn được trẻ lại - J.Swiff

- Không mua được danh dự bằng tiền, nhưng có thể mua sự hèn hạ bằng tiền - F. Goya

- Không phải cái gì lóng lánh đều là vàng - Cervantes

- Khôn ngoan chỉ tìm thấy trong sự chân thật - Goethe

- Kiên nhẫn trợ giúp sự yếu đuối, nóng vội làm đổ vỡ sức mạnh - Colton

- Lời nói khéo còn hơn cả tài hùng biện - F.Bacon





Tháng Tám

- Luôn luôn hi vọng, không bao giờ được tuyệt vọng. Đó là bản chất của người có tâm hồn lớn - G.Flobe

- Một người có thể giấu mọi thứ, trừ hai điều: say rượu và đang yêu - Antiphanes

- Một trái tim biết yêu thương là sự khôn ngoan chân thật nhất - C.Dickens

- Người độ lượng luôn thấy mình giàu có - Vindo

- Người nào biết nhìn về tương lai sẽ không hối hận về quá khứ - A.Blok

- Người khôn ngoan là người biết đến giới hạn nào thì tham vọng không còn là một phẩm chất tốt nữa - J.M.Braude

- Người khôn ngoan lựa chọn sự hiểu biết chứ không chất chồng sự hiểu biết - Madame Lambert

- Người khôn ngoan tạo ra nhiều cơ may hơn là gặp may - F.Bacon





Tháng Chín

- Người khôn ngoan trả thù nỗi nhục nhã của mình bằng những điều tốt lành - Lão Tử

- Những câu hỏi không bao giờ bất cẩn nhưng lắm khi câu trả lời lại bất cẩn - O.Wilde

- Nếu bạn am hiểu nguyên nhân thì hậu quả sẽ không làm bạn bối rối - Ngạn ngữ Ethiopia

- Nếu bạn muốn lên chỗ cao nhất thì hãy bắt đầu từ chỗ thấp nhất - Syrus

- Nếu ở một mình hãy thận trọng với tư tưởng, ở với bạn hãy coi chừng ngôn ngữ - Ngạn ngữ Lào

 - Nếu trái đất hình vuông thì ta sẽ có các góc cạnh để ẩn náu. Nhưng tiếc thay nó lại hình cầu nên chúng ta phải đối diện với cuộc đời - S.Exupery

- Nhân từ, ngọt ngào là dấu hiệu của tính cao thượng - Pythagore

- Nhìn thấy những cái đẹp khó hơn là nhìn thấy những cái xấu – Chateaubrian





Tháng Mười

- Phụ nữ là kiệt tác của vũ trụ - Lessing

- Rồi sẽ tới buổi tối hạnh phúc sướng vui nếu bạn đã suốt ngày lao động – W.Goethe

- Sau một ngày làm việc, giấc ngủ sẽ yên lành. Sau một đời làm được nhiều việc, cái chết sẽ bình thản - Léonard de Vinci

- Sự cô đơn sẽ mang lại hai tính cách xấu xa: đó là tính ích kỉ và lòng tự mãn - M. Ducamp

- Sự thành công là tích số: hiểu biết, may mắn, thành công - Voltaire

- Sự tưởng tượng giống như cánh của con đà điểu. Nó làm con người tiến bộ nhưng không bay lên được - B. Macauday

- Ta chẳng thể nào khám phá được những đại dương mới lạ nếu ta không đủ can đảm để quay đầu khỏi bờ - Muriel Chen

- Tiêu chuẩn đánh giá con người là khát vọng vươn tới hoàn thiện - Goethe





Tháng Mười Một 

- Tính hiếu kì là một trong những đặc tính xác thực nhất của những người đầu óc minh mẫn - S.Jonhson

- Tham vọng không phải là nhược điểm trừ khi nó không xứng với năng lực. Mang tham vọng lớn hơn khả năng của mình chính là điều bất hạnh - G.S Hillard

- Thật kì lạ, chúng ta luôn lướt qua mọi giá trị của người khác mà lại chỉ chú ý đến nhược điểm của họ - J. Addison

- Thời gian là tài sản quí báu nhất và là thứ dễ tiêu tan trong mọi tài sản - John Randolph of Roanoke

- Tình bạn chân thật là một cái cây lớn chậm và phải qua thử thách, chịu đựng những nghịch cảnh - George Washington

- Tình yêu chỉ là cuốn tiểu thuyết của trái tim, chính thú vui mới là lịch sử của nó - Beaunarchais
- Tình yêu nâng cao con người thoát khỏi sự tầm thường - Pascal

- Trang bị quí giá của con người là sự khiêm tốn và tính giản dị - F.Engels





Tháng Mười Hai

- Trẻ trung mãi cùng năm tháng, đó là nghệ thuật sống chân chính - E.Tholmann

- Trên đường học vấn, hễ không tiến là lùi - M.Roustan

- Trong công việc, phải nên lợi dụng ngay cái cơ hội trước mắt hơn là chăm chăm làm cho cơ hội nảy sinh - La Rochefoucauld

- Trong cuộc sống của mỗi người, sự trống rỗng là đáng sợ hơn cả - Bill Gates

- Trong đau khổ, người ta nhận ra bạn bè – Euripde

- Trong mọi kẻ thù, không ai nguy hiểm bằng kẻ trước đây là bạn của ta - A. France

- Tự chinh phục mình là chiến thắng vĩ đại nhất - Platon


























1. Hạnh phúc tồn tại ở trong cuộc sống. Còn cuộc sống tồn tại ở trong lao động - L.Tolstoi
2. Nguyên tắc đầu tiên là tự mình phải tôn trọng mình - Pythagore
3. Không con đường nào rộng mở cho những ai lẩn tránh đấu tranh - Lỗ Tấn
4. Hãy tự dạy mình trước, rồi hãy dạy người khác - W.Goethe
5. Tư cách là tấm gương phản ánh diện mạo của con người - W.Goethe
6. Khiêm tốn bao nhiêu cũng chưa đủ, tự kiêu một chút đã là thừa - K.Marx
7. Khắc phục được gian nan là chuyển gian nan thành cơ hội tốt -W.Churchill
8. Hãy yêu sự thật nhưng phải biết tha thứ cho những lỗi lầm - Voltaire
9. Người ta chẳng bao giờ trả xong nợ với cha mẹ của mình - Aristotle
10. Làm việc nghĩa chớ kể lợi hại. Luận anh hùng chớ kể hơn thua - Lã Khôn
11. Yêu nhau không phải là nhìn nhau, mà là cùng nhìn về một hướng - Saint Exupéry
12. Chỉ có cuộc sống vì người khác mới là cuộc sống đáng quí - A.Einstein
13. Tôi biết có một điều tốt đẹp hơn cả sự ngay thẳng. Đấy là sự khoan dung- V.Hugo
14. Tiêu chuẩn đánh giá con người là khát vọng vương tới sự hoàn chỉnh - W.Goethe
15.
16.
17. Không hiểu biết về sự dốt nát của mình là hai lần dốt nát - Platon
18.
19. Không những phải học ở sách, mà còn phải học ở cuộc sống nữa - N.Crupxcaia
20. Tự xấu hổ với chính mình hơn là xấu hổ với người khác - Pythagore
21.
22. Thời giờ là vàng bạc, để thời gian đi tức là tự hủy hoại mình - Démosthène
23. Kẻ có mặt người hay nịnh hót thì khi vắng mặt người cũng hay chê lại - Trang Tử
24. Trước khi chê người khác, phải xét lại mình - R.Diderot
25. Đọc sách để mà suy nghĩ, đừng đọc sách để mà khỏi suy nghĩ - Gibbon
26.
27.
28.
29.
30.
31.
32.
33.
34.
35. Những gì làm được ngày nay chớ để ngày mai - C. Franklin
36.
37. Người nào biết nhìn về tương lai sẽ không hối hận về quá khứ - Blok
38. Phải can đảm trong cuộc sống đời thường cũng như trong đại sự - S. Smiles
39.
40.
41.
42.
43.
44.
45.
46.
47.
48.
49.
50. Con người đồng thời phải tạo ra và chế ngự được sự đam mê - J.Paul

Thứ Hai, 26 tháng 12, 2011

EM - Lưu Quang Vũ




















Em làm thay đổi đời anh
Như màu trời đổi thay sắc nước
Như gió bấc, gió nồm đổi mùa nóng lạnh
Như phù sa đằm thắm tạo đồng bằng

Anh vào trong vòng tay em
Như tàu vào bến cảng
Biết em là nước mắt của quê hương

Có gì đâu. Chuyện đơn giản dễ dàng
Mà đến nay anh vẫn chưa hiểu hết được
Giữa ý nghĩ rối ren, em là mặt trời trong biếc
Ý nghĩ của anh, thành vầng trán của em

Mỗi ngôi nhà, ngọn gió, mỗi ban đêm
Mỗi tiếng hát đều vọng từ em tới
Anh đọc bao sách dày về tình ái
Bao vần thơ anh viết trót đau buồn

Cứ nghĩ rằng những thiếu nữ như em
Chỉ có trong giấc mơ huyền hoặc
Trên đời này niềm vui không có thật
Và tình yêu chỉ trong truyện mà thôi

Anh hay đâu, anh đã lầm rồi
Em vụt đến cho lòng anh chói lọi
Em vụt đến như mùa xuân bối rối
Với tình yêu là ngọn gió màu xanh

Người đầu tiên hiểu đôi mắt anh
Người duy nhất hiểu điều anh chẳng nói
Hiểu nỗi anh lo, cả những điều tội lỗi
Vẫn bao dung như biển lớn yên lành

Không có em anh sống cũng chẳng là anh
Cám ơn bàn tay chỉ sắc màu hạnh phúc
Em là rễ nối liền anh với đất
Lại là chồi mở búp đón sương mai

Lạ lùng như giấc mơ, mà chẳng phải giấc mơ
Em rất thật như là da thịt
Gần gụi lắm như cơm ăn áo mặc
Lại lung linh như một ánh trăng ngà

Hơi thở êm đềm, đôi mắt mở to
Ngày hạnh phúc có nụ cười mỏi mệt
Là dịu dàng, em cũng là mãnh liệt
Như thủy triều sóng mạnh vỗ vào đêm

Ôi đêm này anh biết nói gì thêm
Em đã là tất cả:
Sao của hoàng hôn
Mầm thơm của mạ
Niềm tin cần cho những năm gian khổ
Và tình yêu nuôi nấng những con người.




ANH - Xuân Quỳnh

Cây bút gẫy trong tay
Cặn mực khô đáy lọ
Ánh điện tắt trong phòng
Anh về từ đường phố
Anh về từ trận gió
Anh về từ cơn mưa
Từ những ngày đã qua
Từ những ngày chưa tới
Từ lòng em nhức nhối...

Thôi đừng buồn nữa anh
Tấm rèm cửa màu xanh
Trang thơ còn viết dở
Tách nước nóng trên bàn
Và lòng em thương nhớ...

Ở ngoài kia trời gió
Ở ngoài kia trời mưa
Cây bàng đêm ngẩn ngơ
Nước qua đường chảy xiết
Tóc anh thì ướt đẫm
Lòng anh thì cô đơn
Anh cần chi nơi em
Sao mà anh chẳng nói

Anh, con đường xa ngái
Anh, bức vẽ không màu
Anh, nghìn nỗi lo âu
Anh, dòng thơ nổi gió...
Mà em người đời thường
Biết là anh có ở !


VH&MT_forever

Thứ Năm, 15 tháng 12, 2011

Mắt của trời xanh - Lưu Quang Vũ


Tóc của đêm dài mắt của trời xanh
Mắt của phương xa tay của đất nâu lành
Người yêu như lửa và như lụa
Bản nhạc ngày xưa con tàu xứ lạ
Nắng cuối mùa đông hoa chớm thu

Bánh xe lăn bờ biển cát bao la
Con ve xanh mưa rào ướt đẫm
Đôi mắt to nóng bỏng
Nói chi lời tàn nhẫn để anh đau

Ru em bên hồ sâu
Lòng đêm rừng thăm thẳm
Mặt trời chiếc mũ vàng chói sáng
Nghiêng một ngày xuống ngủ ở vai em

Anh muốn làm cánh cửa để em quên
Ngọn gió nhỏ trên trán em kiêu hãnh
Làm cốc nước em cầm trưa nắng gắt
Làm con đường quen thuộc để em qua

Vì em anh viết những bài thơ
Gương mặt ấy không gì thay được cả
Mặc ai rằng tình yêu giờ đã cũ
Như vầng trăng như ngọn thuỷ triều

Anh vẫn dựng ngôi nhà theo quy luật của tình yêu
Chẳng cần những lâu đài lạnh giá
Chỉ tin nơi nào có em đến ở
Chỉ sống bằng hơi thở của em thôi

Thứ Tư, 14 tháng 12, 2011

Ý THỨC PHẢN TỈNH - MỘT NÉT ĐẸP NHÂN VĂN TRONG THƠ THỜI TRẦN

Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ ba: Việt Nam - hội nhập và phát triển
Hà Nội, 4 - 7 tháng 12 năm 2008
ĐHQGHN - Viện KHXH VN


VNH3.TB12.485



GS.TS Đoàn Thị Thu Vân
Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh




Trong thơ thời Trần có thể bắt gặp một con người thường xuyên tự phản tỉnh. Phản tỉnh để ý thức được hết những cái đẹp, cái quý, cái cao cả của con người đồng thời cả những giới hạn và bi kịch của đời người. Con người ấy có khi hướng nội để tự xem xét về ý nghĩa của kiếp người, sự tồn tại của đời người. Đó là sự phản tỉnh  ở cấp độ con người - nhân loại mang ý nghĩa triết học. Cũng có khi con người ấy hướng nội để tự soi xét hành vi của bản thân, để biết mình đã làm được gì, chưa làm được gì trong cuộc đời, để đánh giá chính mình, công minh và khách quan, và quan trọng hơn cả, để tự hiểu mình. Đó là sự phản tỉnh ở cấp độ con người - cá thể mang ý nghĩa nhân sinh. 

Ở cấp độ con người - nhân loại, hơn ai hết, Trần Thái Tông luôn thể hiện sự trăn trở về thân phận con người. Quan niệm “Thân như điện ảnh hữu hoàn vô” được nhà thơ ngẫm nghiệm và cảm nhận bằng nhiều hình ảnh, khi thì “Thân như băng gặp nắng trời, Mệnh tựa ngọn đèn trước gió[1], khi thì “Kiếp người như cây nấm cứ tuần tự hết thịnh rồi suy[2], và trong cảnh “bóng ngả nương dâu chiều sắp muộn2, thân người mới mong manh, đời người mới ngắn ngủi làm sao, chẳng khác “cỏ bồ, tơ liễu tạm bợ qua mùa thu[3]. Từ đó, nhà thơ cảm thương cho con người cứ “suốt đời làm người khách phiêu lạc trong gió bụi, ngày càng xa cách quê nhà ngàn vạn dặm2. Đành rằng đó là cảm nhận xuất phát từ góc độ Phật giáo, nhưng nó vẫn mang ý nghĩa nhân văn ở chỗ nhắc nhở mọi người quay đầu nhìn lại để sống thế nào cho có ý nghĩa, tránh lãng phí cuộc đời với những thứ phù du. Tuệ Trung thượng sĩ, dù đã luyện được một tâm thiền như “sen trong lò lửa” vẫn không tránh khỏi thốt lên lời cảm khái:

Đốt đốt phù vân hề, phú quý!
Hu hu quá khích hề, niên quang!
                                                (Phóng cuồng ngâm)

            (Chà chà, giàu sang như áng mây nổi!
            Chao ôi, năm tháng như bóng ngựa chạy qua khe cửa!)
                                                                        (Bài ngâm cuồng phóng)

Trần Thánh Tông thì nói về sự thể nghiệm chân lý cuộc đời của chính bản thân mình: “Tự mình đã thấu được nghĩa lý của năm điều huyền diệu, Mặc sức tung hoành trên con đường bốn ngả[4], vì thế có thể đạt đến tự do “Động như gió vang trong hang trống, Tĩnh như trăng lọt xuống đầm lạnh[5]. Nhưng khúc nhạc huyền diệu trong lòng ấy cũng chỉ mình mình biết, mình mình hay:


Cá trung khúc phá vô nhân hội,
Duy hữu tùng phong họa thử âm”.
                                    (Tự thuật)

            (Khúc nhạc trong lòng ta đã thành hìnhmà không ai hay biết,
            Chỉ có gió trên cây tùng là hòa được âm thanh ấy)

Trần Nhân Tông, trong một lần lên thăm núi Bảo Đài, trước thiên nhiên tịch mịch vừa hiện hữu ngay trước mắt vừa xa vắng như tự ngàn xưa - “Vân sơn tương viễn cận, Hoa kính bán tình âm[6] - đã thể nghiệm một nỗi cô đơn thẳm sâu không bờ bến:

Vạn sự thủy lưu thủy,
Bách niên tâm ngữ tâm”.
                                    (Đăng Bảo Đài sơn)

Mỗi con người là một thành viên, một phần hữu cơ của cộng đồng nhân loại, của dân tộc, của xã hội mình đang sống. Mỗi người đều liên quan mật thiết với người khác và số phận của mình gắn chặt với số phận của dân tộc, của nhân loại. Với tư cách con người - cộng đồng đó, những con người thời Trần đã sống hết mình, chan hòa, cởi mở, yêu thương, nhiệt huyết, nhưng với tư cách con người - cá thể, họ đã chiêm nghiệm sâu sắc nỗi cô đơn như một thuộc tính của đời người, cho dù đang ở ngôi cao chín bệ hay làm kẻ dật dân chốn sơn lâm. Có thể ý thức về nỗi cô đơn của con người không phải là một phát hiện gì mới, người xưa đã nhắc đến rồi, nhưng sự nhận thức sâu sắc về nó của những con người ở vào một thời đại thịnh vượng, huy hoàng của lịch sử, và từ những ông vua, những vị thân vương quý tộc - được xem như chủ thể của thời đại - có tất cả địa vị, quyền lực, danh vọng trong tay, thì là lại một điều có ý nghĩa không nhỏ. Người ta vẫn quen cho rằng ở vào thời suy loạn mới xuất hiện tiếng nói đau đời. Nhưng thơ ca thời thịnh Trần cho thấy những nỗi niềm nhân sinh là điều các nhà thơ vẫn thường trăn trở. Đó không phải là nỗi niềm nhân sinh có tính chất thế sự mà là nỗi niềm nhân sinh mang tính chất triết học - sự thấu hiểu những giới hạn của con người và đời người. Sự thấu hiểu này giúp con người coi khinh phú quý, bình thản trước thịnh suy. Trần Nhân Tông trong bài Xuân vãn đã nói về giây phút phản tỉnh của mình:

Niên thiếu hà tằng liễu sắc không,
Nhất xuân tâm tại bách hoa trung.
Như kim khám phá Đông hoàng diện,
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng”.

            (Tuổi trẻ chưa từng hiểu rõ lẽ sắc không,
            Mỗi lần xuân đến vẫn gửi lòng nơi trăm hoa.
            Ngày nay khám phá ra bộ mặt thật của chúa xuân,
            Ngồi trên đệm cỏ giữa tấm phản nhà chùa ngắm cánh hoa rụng)

Con người ấy thời tuổi trẻ lầm tưởng thế gian là vĩnh cửu nên lòng xao xuyến mừng vui khi xuân về hoa nở, xót xa tiếc nuối khi xuân đi hoa tàn, giờ đây hiểu được lẽ thật của cuộc đời nên có thể an nhiên nhìn sự vật vần xoay. Cái lớn của nhà thơ là nhận thức sự hữu hạn của đời người không phải để mang nặng bi kịch trong tâm tư mà là để chấp nhận nó như một thực tế tự nhiên và có thể vui sống hết mình những thời khắc hiện tại. Giống như khi Trần Quang Khải trở lại bến đò Lưu Gia từng in dấu kỷ niệm thời trai trẻ, soi bóng xuống dòng sông năm nào thấy mái tóc xanh đã thay màu bạc trắng, vẫn giữ được sự thư thái và thanh thoát của tâm hồn vì không hối tiếc với những gì mình đang sống:

Thi khách trùng lai đầu phát bạch,
Mai hoa như tuyết chiếu tình xuyên”.
                                                (Lưu Gia độ)

            (Khách thơ trở lại mái đầu đã bạc,
            Hoa mai trắng như tuyết soi bóng xuống dòng sông trong tạnh)
                                                                                    (Bến đò Lưu Gia)

Một bài thơ có tính chất ghi lại sự việc nhưng khá đáng chú ý là Tây chinh đạo trung của Trần Nhân Tông. Bài thơ làm trên đường hành quân về biên giới phía Tây bộc lộ tâm trạng và cảm nghĩ rất chân thật của nhà thơ. Ở đây là một ông vua, người lãnh đạo quốc gia, nắm quyền lực cao nhất, nhưng tâm trạng và cảm nghĩ đó lại là của một con người đời thường. Đi “chinh phạt” chẳng qua chỉ là bất đắc dĩ, vì chẳng đặng đừng, đó không phải là lòng ham muốn, là sự hăm hở, niềm đam mê chinh phục. Bài thơ rất lạ ở chỗ viết về chuyện đi đánh giặc, và là người trực tiếp cầm quân, chỉ đạo đánh giặc, lại bộc lộ sự chán ghét chiến tranh và lòng hướng về hòa bình:

Thê lương hành sắc thiêm cung mộng,
Liêu loạn nhàn sầu đáo tửu bôi.
Hán Vũ phiên chiêu cùng độc báng,
Nam nhi cấp cấp nhược vi tai?
                                                (Tây chinh đạo trung)

            (Cảnh đi đường lạnh lẽo lại thêm vương vấn giấc mơ cung nội,
            Mối sầu ngổn ngang mượn đến chén rượu.
            Hán Vũ Đế đã chuốc lấy lời chê “cùng binh độc vũ”
            Thế thì kẻ làm trai vội vã về việc chinh chiến để làm gì?)
                                                            (Trên đường đi chinh phạt phía Tây)

Giấc mộng về nơi cung nội còn gì khác hơn lòng thương nhớ vợ con, nỗi sầu mượn chén rượu làm khuây chẳng lẽ lại không phải là nỗi sầu xa cách quê nhà? Tâm trạng một ông vua cũng đâu khác gì tâm trạng một người lính. Vì thế câu hỏi “Kẻ làm trai cứ phải vội vã về việc chinh chiến để làm gì?” thể hiện một sự phản tỉnh sâu sắc. Cầm quân đi chinh chiến mà lại tự hỏi về ý nghĩa của việc chiến chinh. Đừng vội kết luận nhà vua không vững lập trường, sợ sệt, chùn nhụt, hay cho rằng nhà vua nhận thức cuộc chinh phạt của mình là phi nghĩa. Chinh chiến là việc không thể không làm khi cần thiết, để bảo vệ cõi bờ, lãnh thổ, dù người cầm vũ khí tha thiết yêu hòa bình. Vua quan, tướng lĩnh và quân dân thời Trần đã làm như thế, dũng cảm, hết mình, không tiếc máu xương. Nên những con người ấy mới dám đường hoàng bộc lộ quan điểm của mình về chiến tranh như vậy. Câu hỏi Trần Nhân Tông đặt ra cũng lạ như Trần Quốc Tuấn khi viết hịch kêu gọi các tướng đánh giặc lại dám nêu những gương trung thần nghĩa sĩ từ phía đối phương. Ranh giới giữa mặt phải và mặt trái vấn đề nhiều khi chỉ xê xích nhau sợi tóc. Nếu không có cái tâm vững vàng, trong sáng, con người hẳn không làm được điều phi thường đó, tự do trong nhận thức và hành động mà vẫn không sợ đi sai đường.

cấp độ con người - cá thể, tiêu biểu cho ý thức phản tỉnh, không thể không nhắc đến Trần Minh Tông với bài thơ khá đặc biệt - Dạ vũ (Mưa đêm).

Đêm mưa, đặc biệt đêm mưa thu, là đề tài thường gặp trong thơ trung đại. Phần nhiều đó là những đêm mưa thu trên đất khách, quê người, và người trong cảnh thường là kẻ phiêu dạt, long đong nơi “thiên nhai hải giác”. Người đã buồn, cảnh càng làm tăng nỗi buồn, nhớ và cô đơn đến phải bật lên tiếng thơ để giải tỏa nỗi niềm. Nhưng cảnh ngộ của Trần Minh Tông trong bài thơ Dạ vũ thật khác. Nhà thơ không xa quê quán, không nhớ đến người thân mà đang ở ngay tại quê nhà mình, trong chăn êm nệm ấm, không phải là kẻ thất chí, lỡ vận, mà là một vị hoàng đế quyền uy tối thượng. Cũng không mang nỗi buồn thời thế, vì đất nước đang thanh bình, yên ổn. Vậy mà mưa đêm đã để lại cho đời một tuyệt tác thấm đẫm nỗi buồn rất riêng của một ông vua - thi sĩ đủ làm lay động trái tim nhiều thế hệ đi sau.

"Thu khí hòa đăng thất thự minh 
Bích tiêu song ngoại đệ tàn canh
Tự tri tam thập niên tiền thác
Khẳng bả nhàn sầu đối vũ thanh"
            
                        (Hơi thu hòa vào ngọn đèn làm mờ đi ánh sáng ban mai,
                        Giọt mưa trên tàu chuối xanh ngoài cửa sổ tiễn canh tàn.
                        Tự biết sai lầm của mình ba mươi năm trước,
                        Đành ôm nỗi sầu ngồi nghe mưa rơi)

Hơi thu hiu hắt hòa vào ngọn đèn lấn át cả ánh sáng buổi bình minh. Mở đầu bài thơ như có một nỗi buồn nào đó đang lẫn khuất trong không gian, nó làm cho đêm cứ muốn kéo dài thêm và ngày không sáng được. Ngọn đèn chưa tắt, có lẽ người thao thức suốt đêm chăng? Thì đây, câu thơ tiếp theo đã xác nhận điều đó - “Tàu chuối ngoài song cửa điểm giọt canh tàn”. Những giọt mưa đọng trên tàu chuối đã rơi rả rích suốt đêm đến lúc tàn canh như chiếc đồng hồ báo thời gian. Con người đã thức trắng để nghe nhịp thời gian đi, đều đặn liên tục. Có gì khác lạ ở đây chăng? Tiếng giọt mưa tàu chuối điểm tí tách trên sân hay trên những tàu lá thấp hơn hẳn là rất khẽ, vậy mà người nằm bên song cửa đã nghe rõ từng giọt một. Quả là người ấy đang hoàn toàn tỉnh thức để một mình đối diện với đêm dài. Với một tâm trí đang thanh thản, những âm thanh đều đặn khe khẽ đó chắc hẳn sẽ dễ đưa con người vào giấc ngủ ngon lành. Nhưng nếu có điều gì đó đang vướng bận tâm tư làm khó ngủ thì hẳn là cái nhịp thời gian đều đặn kia phải khiến cho con người sốt ruột lắm, và cảm thấy bức bối như mình là kẻ tù nhân đang bị một khung lưới vô hình nào đó vây hãm không thể thoát ra. Câu thơ thứ ba và thứ tư đến với người đọc vừa như một sự tiếp nối hiển nhiên, vừa cũng thật bất ngờ - “Tự tri tam thập niên tiền thác, Khẳng bả nhàn sầu đối vũ thanh”. Hiển nhiên, vì người đọc hiểu cảnh ấy tất phải có tình này. Người thức cả đêm nghe tiếng mưa rơi hẳn phải có một nỗi niềm gì u uẩn lắm. Nhưng bất ngờ, vì nỗi niềm ấy là một sự tự nhận thức và hối tiếc sâu sắc về lỗi lầm của một ông vua. Ba mươi năm về trước, lúc còn tuổi trẻ, nhà vua đã có lần nghe lầm lời cáo gian, giết oan một người vô tội. Giờ đây tất cả đều đã muộn. Quyền uy thiên tử cũng đành bất lực trước thời gian. Lời hối tiếc của nhà vua sao mà xót xa! Đến đây người đọc càng thấm thía hơn cái nhịp thời gian của giọt mưa tàu chuối. Nó đều đặn, không ngừng, nhắc cho nhà vua luôn nhớ, luôn đối diện trước một hiện thực phũ phàng khắc nghiệt: thời gian vẫn không ngừng trôi đi và không ai có thể bước lùi trở lại. Ba mươi năm qua, không biết bao đêm Minh Tông đã thao thức đếm giọt mưa tàu chuối để làm tội nhân của chính lương tâm mình, làm tù nhân trong vòng vây của thời gian và sự phản tỉnh bắt buộc mình phải đối diện với một sự nuối tiếc muộn màng vô bổ để rồi tự xót xa dày vò khôn nguôi. “Đành ngồi ôm mối sầu nhàn mà nghe tiếng mưa rơi” là một hình phạt tinh thần nặng nề mà nhà thơ đã tự dành cho mình. Khi đậu thuyền bên hồ Vịnh Sơn vào một đêm đông, Minh Tông cũng mang cả vào lòng cái lạnh của hoa núi,  của trăng soi để rồi suốt đêm không ngủ được, dõi nhìn bất lực vào “việc đã qua như trong khoảnh khắc[7] mà mình “nên người thì đã ba mươi năm1. Và khi chợt tỉnh chỉ còn biết “tái tê ngồi lặng trước bếp lò1 buổi sáng. Đáng thương và cũng đáng phục biết bao. Một ông vua đã dũng cảm nhận lỗi và dũng cảm nhận lấy sự trừng phạt của lương tâm: không lúc nào cho phép mình có thể thanh thản tâm tư được nữa. Lời tự thú về sai lầm của một vị vua trong Dạ vũ quả là một thanh âm đặc biệt của làng thơ. Nó nâng bài thơ lên một tầm cao nhân văn xứng với thời đại - một thời đại của hào khí Đông A sản sinh ra những con người thực sự vĩ đại không chỉ về tài năng mà còn về nhân cách.

Dưới thời phong kiến, những lỗi lầm của một vị hoàng đế trong quá trình cầm quyền không phải là ít nhưng sự nhận ra, và quan trọng hơn, dũng cảm thừa nhận và ăn năn về những lỗi lầm đó lại không phải là nhiều, nếu không muốn nói là rất hiếm. Trần Minh Tông là một ông vua đã làm được điều lớn lao đó, đặt lương tâm con người lên trên lòng tự tôn và quyền lực của một vị quân vương để tự trói mình trong nỗi đau suốt đời. “Đối diện tiếng mưa rơi” là đối diện với bước đi thời gian không quay trở lại. Tâm trạng “nhàn sầu” đối lập với ngoại cảnh “vũ thanh”. Tiếng mưa càng rơi là thời gian càng chồng chất và nỗi sầu không phai nhạt đi theo thời gian mà càng day dứt thêm lên. Lòng sầu đến thế thảo nào chẳng cảm nhận hơi thu át cả ánh sáng ban ngày và đêm sao như cứ dài ra mãi. Đầu và cuối bài thơ đã có sự hô ứng về ý thơ thật chặt chẽ.

Cùng nghe mưa đêm, lòng buồn, thao thức, nhưng ở Thính vũ của Nguyễn Trãi, những giọt mưa cứ đứt nối cho đến trời sáng thể hiện sự thôi thúc bên trong hướng về tương lai, mong sớm làm được điều gì đó đạt thành chí nguyện. Còn ở Dạ vũ của nhà vua đời Trần những giọt điểm canh tàn lại gợi về quá khứ sau bao năm dài vẫn chưa ngủ yên dưới lớp bụi thời gian. Tiếng mưa bên ngoài có lẽ đến một lúc nào đó đã ngừng hẳn, nhưng âm thanh của nó vẫn vang trong lòng tác giả như một nỗi ám ảnh. Tiếng mưa ở cuối bài có thể chỉ là cái dư hưởng bên trong đó, nó là sự nhắc nhở không thôi của lương tri, sự phân thân, nhị hóa để không ngừng tự phán xét mình. Tiếng mưa đêm trong lòng ấy đã trở thành một hình tượng thẩm mỹ đặc biệt khác với tiếng mưa đêm trong bất kỳ bài thơ nào khác, nó làm cho Dạ vũ mang vẻ đẹp riêng với một sức ám ảnh thâm trầm nhưng thật da diết khó quên.

Cuối thời Trần, chính sự không còn được như xưa. Trên thi đàn xuất hiện tiếng thơ ưu thời mẫn thế thể hiện tấm lòng của những người trí thức chân chính trước thời cuộc, trước vận nước, đặc biệt là đối với số phận của người dân. Cùng một tấm lòng “lo trước” nhưng mỗi nhà thơ một phong cách khác nhau. Ở Trần Nguyên Đán, phản tỉnh tự vấn và tự thẹn là một cảm hứng khá nổi bật, mặc dù nhà thơ từng đóng góp công sức không nhỏ cho triều đại và cho đất nước. Trong thơ ông, người đọc thường gặp nỗi ray rứt khi tự soi rọi bản thân, để từ đó toát lên lời tự bạch chân thành, thẳng thắn về cái thẹn của mình, thẹn vì sở học một đời không giúp ích thiết thực được cho dân đang cơ cực, và thẹn với chính mình đã không hoàn thành được hoài bão an dân bình sinh từng ấp ủ:

Niên lai hạ hạn hựu thu lâm,
Hòa cảo miêu thương hại chuyển thâm.
Tam vạn quyển thư vô dụng xứ,
Bạch đầu không phụ ái dân tâm”.
(Nhâm Dần lục nguyệt tác)

(Năm nay mùa hè bị hạn, mùa thu lại bị lụt.
Lúa khô, mạ thối, tai hại càng nhiều.
Đọc ba vạn cuốn sách mà thành vô dụng,
Bạc đầu luống phụ tấm lòng yêu dân)
(Thơ làm vào tháng sáu năm Nhâm Dần)

Không ít lần nhà thơ nói đến cái thẹn, khi thì thẹn vì mình đã già yếu mà còn giữ chức quan cao:

Lãm kính tự tàm duy nhất sự,
Lực phù suy bệnh tác Tam công”.
(Ngẫu đề)

(Soi gương tự thẹn chỉ có một việc,
Đó là cố chống đỡ với già bệnh để giữ chức Tam công)
(Ngẫu hứng đề thơ)

khi thì thẹn với người đạo sĩ  lánh đời:

Trần ai lục thập tải,
Hồi thủ quý hoàng quan”.
(Đề Huyền Thiên quán)

(Sáu mươi năm sống trong cõi trần,
Quay đầu nhìn lại luống thẹn với người đội mũ vàng)
(Đề quán Huyền Thiên)

khi lại thẹn mình bất lực, khư khư ôm một tấm lòng son đến bạc đầu mà chưa làm nên việc gì, không được như người xưa sớm lui về ẩn dật:

Tam phần đầu bạch thốn tâm đan,
Thế thượng phân phân vạn sự nan.
Tự tiếu bất như Tiền Nhược Thủy,
Niên tài tứ thập tiện hưu quan”.
(Mậu Thân chính nguyệt tác)

(Ba phần tóc trên đầu đã bạc, vẫn tấc lòng son,
Sự đời bối rối, muôn việc khó khăn.
Tự cười mình không bằng ông Tiền Nhược Thủy,
Tuổi mới bốn mươi đã cáo quan về hưu
(Thơ làm vào tháng giêng năm Mậu Thân

có lúc lại thẹn mình chỉ như “bộ xương ốm yếu lênh đênh” theo năm tháng, “tự cười mình chìm nổi, chẳng có kế thuật gì[8].

Nơi Trần Nguyên Đán thường xuyên có sự giằng co giữa “ở” và “về”, nhà thơ khao khát “nơi cửa sổ phía nam đặt chiếc gối ngọc làm bạn cùng chiếu trúc[9] để nhìn “mây tụ trước hiên”, nghe “suối reo bên gối[10], nhưng trước cảnh “cuộc sống của dân như cá trong vạc nước sôi” thì “trên chiếc thuyền về, tấm lòng chưa yên giấc mộng giang hồ[11]. Vì thế, ngoài những bài thơ thù tạc với bạn bè, những bài thơ của riêng mình thường được ông viết về ban đêm, những đêm thao thức nghe “gió thu trong đêm vắng thổi vi vu, Buồn bã ngồi trước ngọn đèn tàn”, muốn “ngủ đi cho quên hết duyên nợ cuộc đời[12] nhưng lại không ngủ được, “nơi quan xá, trong sương thu, nghe giọt đồng hồ nhỏ chậm”, vừa nhớ về “tùng cúc vườn xưa ở tận chân trời xa” vừa lo lắng vì “trước mắt toàn là những việc phải quan tâm” nên “bệnh khỏi không bằng khi còn bệnh[13]. Nếu chọn cách vứt bỏ hết việc đời phiền toái để quay về vui thú an nhàn thảnh thơi thì đã dễ. Hoặc chọn chốn quan trường để được danh cao lộc trọng mà không cần lẩn thẩn buộc mình tự vấn và tự thẹn thì lại càng dễ hơn. Nhưng lương tri nhà thơ không cho phép mình lựa chọn dễ dàng như thế. Tâm sự ngổn ngang  được bộc bạch chân thành trong thơ đã nói lên chí hướng ưu ái thiết tha, làm tôn lên vẻ đẹp của lương tri và tấm lòng người trí thức trong thời suy loạn. Tuy chưa đề cập cụ thể đến những cảnh đời bất hạnh, những con người có tuổi tên như các nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa ở thế kỷ XVIII, XIX nhưng nỗi niềm nhân sinh ở đây đã cho thấy được một nét nổi bật của nhân cách con người thời đại: ý thức phản tỉnh, tự soi rọi luôn thường trực nơi bản thân để tự nhắc nhở, ràng buộc mình một trách nhiệm gắn bó với cộng đồng và sống thế nào cho có ý nghĩa.



Những nỗi niềm nhân sinh mang ý nghĩa tríết học xuất phát từ sự phản tỉnh của tâm thức khao khát tìm kiếm lẽ thật của đời người đã dẫn dắt con người đi đến cảm nhận sâu sắc về nỗi cô đơn cũng như những bi kịch tất yếu của kiếp người  để chấp nhận nó và hóa giải nó một cách “tùy duyên” bằng cái tâm trong sáng và an định. Mặt khác, những nỗi niềm nhân sinh mang ý nghĩa xã hội xuất phát từ sự phản tỉnh của tấm lòng lo đời thương dân đã mang đến cho con người trong thơ vẻ đẹp của sự quên mình và tận tụy. Nét đẹp nhân văn ấy phải chăng đã góp phần không nhỏ khẳng định nhân cách lớn lao của con người thời Đông A cũng như dấu ấn khó phai của một thời đại thơ ca một đi không trở lại.





[1] Sơ nhật vô thường kệ – Trần Thái Tông – Thơ văn Lý Trần, tập II, quyển thượng, Viện Văn học, Nxb Khoa học xã hội, HN, 1988.
[2] Thử thời vô thường kệ – Trần Thái Tông – Sđd.
[3] Phổ thuyết tứ sơn – Trần Thái Tông – Sđd.
[4] Độc “Phật sự đại minh lục” hữu cảm – Trần Thánh Tông – Sđd.
[5] Độc “Phật sự đại minh lục” hữu cảm – Trần Thánh Tông – Sđd.
[6] Đăng Bảo Đài sơn – Trần Nhân Tông – Sđd.
[7] Thập nhất nguyệt quá bạc Vịnh Sơn hiểu trú – Trần Minh Tông – Sđd.
[8] Đáp Lương Giang Nạp ngôn bệnh trung - Thơ văn Lý Trần, tập III, Viện Văn học, Nxb Khoa học xã hội, HN, 1978.
[9] Quân trung tác – Sđd.
[10] Đề Sùng Hư lão  túc – Sđd.
[11] Dạ quy chu trung tác – Sđd.
[12] Dạ thâm ngẫu tác – Sđd.
[13] Bất mị – Sđd.