Ngược dòng lịch sử, căn cứ vào các
tài liệu địa chí hiện biết thì Nam
Định vốn là đất Nam Giao đời xưa. Thời Lý, đất ấy thuộc lộ Hải Thanh. Thời
Trần, Trần Thái Tông đổi là lộ Thiên Thanh; Trần Thánh Tông đổi thành lộ Thiên
Trường, đồng thời thăng làng Tức Mặc lên thành phủ Thiên Trường (1262).
Nhìn một cách tổng quan, phủ Thiên Trường dưới thời Trần bao gồm một vùng rộng
lớn tương đương với cả miền hữu ngạn hạ lưu sông Hồng (nay thuộc tỉnh Nam Định)
và một phần tả ngạn huyện Thư Trì (nay thuộc tỉnh Thái Bình); cách kinh thành
Thăng Long chín mươi kilômét về phía đông nam, trong đó Tức Mặc chính là thủ
phủ.
Nam Định - Thiên Trường, mảnh đất sơn
thuỷ hữu tình, giàu truyền thống, lại nhuần nhị với phong vị riêng mang đặc
trưng của vùng đất đã phát tích nên dòng họ Trần, nơi dấy nghiệp, dựng nghiệp
của vương triều Trần với bao chiến công hiển hách. Thơ ca dân gian được cất lên
từ vùng đất Nam Định - Thiên
Trường vừa hàm ẩn đặc điểm chung của thơ ca dân gian Việt Nam vừa mang
màu sắc địa phương rõ rệt.
1. Khảo sát ca dao về
phủ Thiên Trường xưa
Khảo sát thơ ca
dân gian trên quê hương Nam
Định nay, chúng ta như được bước vào một thế giới mênh mông của chất liệu ngôn
từ và điệu lòng, điệu hồn dân tộc. Cảnh sắc, thiên nhiên, con người, phong vật,
lịch sử như quyện hoà vào nhau, lung linh mà chân thực, sống động. Trên cơ sở
kết quả khảo sát từ nguồn tư liệu chính là hai cuốn sách:
- Ca dao, tục ngữ Nam
Hà, Ty
Văn hoá Nam Hà, 1974
- Vũ Ngọc Phan, Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, H., 1971
Chúng
tôi đã chắt lọc, tập hợp và thống kê được mười bốn bài ca dao liên quan đến phủ
Thiên Trường. Việc khảo sát được tiến hành trên hai phương diện: khảo sát về
quy mô, số lượng câu thơ và khảo sát về nội dung.
Về quy mô, số lượng câu thơ:
Mười bốn bài ca dao được khảo sát đều
được sáng tác theo thể thơ lục bát truyền thống. Trong đó:
- Ca dao bố cục hai câu là: 4 / 14
bài (chiếm 28,6%)
- Ca dao bố cục bốn câu chiếm số
lượng chủ yếu: 8 / 14 bài (chiếm 57,4%)
- Ca dao bố cục sáu câu là: 1 / 14
bài (chiếm 7%)
- Ca dao bố cục tám câu là: 1 / 14
bài (chiếm 7%)
Về phương diện nội dung:
Cả
mười bốn bài ca dao đều hướng đến chủ đề tình nghĩa, thể hiện rất mực tự nhiên,
chân thực, trong sáng tình yêu quê hương đất nước thiết tha, sâu nặng và tình
cảm lứa đôi thuỷ chung, đằm thắm.
Nội
dung của các bài ca dao về phủ Thiên Trường xưa được khảo sát tập trung trong
ba bộ phận chính:
Ca dao
trữ tình: 10 / 14 câu (chiếm 71,4%),
trong đó: ca dao về địa danh, phong vật: 8 / 10 câu (chiếm 80%); ca dao về lịch
sử, truyền thống: 2 / 10 câu (chiếm 20%). Trong bộ phận ca dao về địa danh,
phong vật thì: có 5 / 8 câu biểu hiện tình yêu quê hương đất nước (chiếm 62,5%)
và 3 / 8 câu gắn tình yêu quê hương đất nước với tình yêu nam nữ, hạnh phúc lứa
đôi, (chiếm 37,8%).
Ca dao về sinh hoạt lao động,
sản xuất: 2 / 14 câu (chiếm 14,3%).
Ca dao về lễ hội, đền chùa:
2 / 14 câu (chiếm 14,3%).
Đề tài
Số lượng
|
Ca dao về địa danh, phong vật
|
Ca dao về lịch sử, truyền thống
|
Ca dao về sinh hoạt lao động, sản xuất
|
Ca dao về lễ hội, đền chùa
|
Tổng số
|
8
|
2
|
2
|
2
|
14
|
Bảng thống số lượng và nội
dung ca dao về địa danh phủ Thiên Trường
Đây
chưa phải con số thống kê đầy đủ, hoàn chỉnh, chưa thể làm tái hiện toàn vẹn
hình ảnh của phủ Thiên Trường trong mạch chảy chung của lịch sử dân tộc thời
đại các vua Trần nhưng cũng góp phần giúp chúng ta hiểu rõ hơn về sức sống bền
bỉ, mãnh liệt của mảnh đất này trong đời sống văn hoá, văn học dân gian Việt
Nam. Mảnh đất ấy khi bước vào mạch nguồn ngọt ngào của thơ ca dân gian, được
tưới tắm bằng điệu hồn, tiếng lòng của chính người dân xứ sở thì hình ảnh của
nó đã thật sự trở nên rõ ràng, đậm nét, trở thành một đối tượng thẩm mĩ trong
tâm thức dân gian.
2. Giá trị của ca dao về phủ Thiên Trường xưa
Ca
dao là thể loại thơ truyền thống, giữ vai trò quan trọng nhất trong thơ ca dân
gian Việt Nam, “có phong cách riêng, được
hình thành và phát triển trên cơ sở của thành phần nghệ thuật ngôn từ trong các
loại dân ca trữ tình ngắn và tương đối ngắn của người Việt” (Hoàng Tiến Tựu, Văn học
dân gian Việt Nam tập 2, NXB Giáo dục, H., 1990; tr 140). Theo Hoàng Tiến Tựu, căn
cứ vào đề tài và đối tượng phản ánh mà ca dao được chia thành sáu bộ phận
chính: đồng dao (hay ca dao trẻ em), ca dao nghi lễ phong tục, ca dao lao động,
ca dao trào phúng (với tiếng cười tự trào và tiếng cười phê phán, châm biếm),
ca dao lời ru (ru con hay ru em), ca dao trữ tình (bao gồm các loại đề tài:
tình yêu đôi lứa, tình yêu quê hương xứ sở, tình cảm gia đình, đề tài xã hội,
lịch sử). Trong đó, bộ phận ca dao trữ tình chiếm số lượng chủ yếu.
Trong hệ thống ca dao gắn với phủ
Thiên Trường, rất nhiều tên riêng đã được nhắc tới, từ khái quát tên chung (“chốn
Thiên Trường, phủ Thiên Trường”)
đến cụ thể tên từng địa phương thuộc phủ Thiên Trường (“đất Tức Mặc, Nam
Chân, Phương Bông, huyện Giao Thuỷ”)
hay chi tiết mỗi tên đất tên làng, hình sông dáng núi (“đưòng Vàng sông
Ngọc, vũng Thuỷ Tiên, non Côi sông Vị; làng Lạc Nông”). Đặc điểm riêng này khi so sánh với những nét chung trong ca
dao truyền thống: “Thời gian, địa điểm (…) thường mang tính phiếm chỉ. (…)
Sở dĩ như vậy là vì ca dao nhằm hướng về sự phản ánh những tình cảm chung,
những tâm trạng phổ biến của nhiều người trong nhân dân” (sđd,
tr 181) cho thấy: tính
chất cụ thể, xác thực đã tạo nên nét đặc trưng tiêu biểu cho mảng thơ ca liên
quan đến địa danh lịch sử văn hoá này.
Chúng ta đã biết, núi non
có hồn là nhờ vào lịch sử. Theo quan niệm của người xưa, tạo hoá ưu ái cho mảnh
đất Thiên Trường vẻ đẹp hài hoà cả hai, vừa mang thần sắc tự nhiên vừa toát lên
khí thiêng lịch sử, gần gũi với cuộc sống con người. Đi vào những vần thơ dân
gian, phủ Thiên Trường trước tiên được miêu tả là miền đất có phong tục
thuần hậu, ghi đậm dấu ấn lịch sử, truyền thống dân tộc:
Đất Tức Mặc chốn Thiên Trường
Vốn xưa là đất danh hương lưu truyền
“Danh
hương lưu truyền” ngàn đời này gắn liền với một trong những triều đại nổi tiếng
nhất của chế độ phong kiến Việt Nam: triều đại nhà Trần. Hương Tức Mặc - phủ
Thiên Trường là đất phát tích, dấy nghiệp, dựng nghiệp của dòng tộc Đông A. Sự
tồn tại của nó theo quan niệm dân gian có mối liên quan mật thiết với quá trình
hình thành, hưng thịnh và suy vong của triều Trần:
Hỏi thăm Tức Mặc mà chơi
Nhà
Trần thủa ấy mấy đời đế vương
Dù
chẳng kinh sống rẽ ngang
Ngàn năm luỹ đá, thành vàng khôn lay
Dựa vào các chứng cứ lịch
sử thì, trên đất Nam Định từ thời Trần, rất nhiều kênh mương đã được khơi dòng,
tiêu biểu là kênh Phụ Long thuộc huyện Mỹ Lộc. Dòng kênh này chảy thông
qua kênh Vị Hoàng, còn có tên gọi là kênh sống, “xưa đây là
dải đất bằng, duy chỉ có khe nước nhỏ chảy (…) vào cầu Vĩnh Tế (cầu Viềng),
vòng quanh làng Tức Mặc, qua cầu Gia Hoà, ra cửa Tiểu Cốc, vào sông An Tiêm”
(Trần Thanh Mai (sưu tầm), Thời Trần và Hưng Đạo Đại
Vương Trần Quốc Tuấn, NXB Mũi Cà Mau, 1998, tr 202). Nhà Trần đã cho đào
rộng từ kênh Phụ Long đến sông Vị Hoàng để thông với sông An Lá. Truyền thuyết
cho việc này làm đứt long mạch nên cơ nghiệp nhà Trần suy vong. Cách lý giải
trong câu ca dao khiến ta liên tưởng đến nội dung truyền thuyết Sự tích
ngôi mộ nhà Trần, cho việc vì vô tình làm đứt long mạch “do đào một thuỷ đạo từ sông Cái
xã Phú Xuân đi vào, quanh đến xã Thái Đường” (Tổng tập văn học
dân gian người Việt tập 5 (Truyền thuyết dân gian người Việt), NXB
Khoa học xã hội, H., 2004, tr 26) khiến nhà Trần bị suy, rồi bị Xích chuỷ hầu (Hồ Quý Ly) thoán
đoạt. Như vậy, xung quanh nguyên nhân triều đại nhà Trần bị mất ngôi, có rất
nhiều truyền thuyết với những dị bản khác nhau gắn liền với từng địa danh lịch
sử; thể hiện cái nhìn duy tâm tôn giáo, dựa vào tín ngưỡng, phong thuỷ. Bên
cạnh đó, nội dung bài ca dao còn nêu lên một cách đánh giá lịch sử đầy tính
nhân văn:
Dù chẳng kinh sống rẽ ngang
Ngàn năm luỹ đá, thành vàng khôn lay
Trong tâm thức dân gian,
nhà Trần dù trong quá trình tồn tại còn chứa đựng nhiều hạn chế lịch sử và đã
để mất ngôi nhưng những thành tựu mà vua quan nhà Trần gây dựng nên vẫn tồn tại
muôn đời cùng thời gian. Chính cách đánh giá thấu tình đạt lý này đã góp phần
làm nên dấu ấn muôn đời của dòng tộc Đông A và mảnh đất quê hương của họ trong
đời sống văn hoá, tinh thần người Việt.
Phủ Thiên Trường là địa
danh lịch sử, đồng thời cũng là miền đất văn hoá. Miền đất ấy trong thơ ca
truyền miệng cũng có cảnh sắc thiên nhiên nên thơ, hữu tình, nhân tài vật lực
phong phú.
Tất cả được
tạo dựng nhờ khí thiêng sông núi (“Nhờ ơn phong thổ hiển vinh trên đời”) và truyền thống lịch sử của địa
phương. Mỗi làng quê, thôn xóm được miêu tả đều như một bức tranh “châu
tiên tuyệt vời” với non
xanh nước biếc, sơn chầu thuỷ tụ:
Núi non chầu lại bốn bên
Mênh
mang nước biếc, châu tiên tuyệt vời
Ở đó vừa có vẻ hùng vĩ,
hiểm trở, tiêu biểu cho cảnh quan thiên nhiên đất nước:
Nhất
cao là núi Tản Viên
Nhất
sâu là vũng Thuỷ Tiên cửa Vường
Vừa mang nét bình dị, ấm êm của cuộc sống dân dã đời thường:
Non
xanh nước biếc hữu tình
Lúa
đồng bát ngát rung rinh bốn mùa
Lại
có sự phong phú về nhân tài vật lực với “người lắm của giàu, hoa màu xiết
bao, quan dân tốt lành”.
Con người là tài sản vô giá của mảnh đất Thiên Trường địa linh nhân kiệt.
Họ không chỉ là những anh hùng hào kiệt từng xông pha trận mạc bảo vệ quê hương
như Trần Hưng Đạo với tư thế hiên ngang:
Quê hương ba vạn Nam Thành
Cửa
Son, cửa Lục, cửa Hoành, Đại Giang
Bắc
thì An Nghiệp, An Phong
Tả
cơ, hữu đội đùng đùng kéo sang
Mà
có khi chỉ là những người thật thà chân chỉ nhà quê. Trong thời bình, họ chăm chỉ hôm sớm
với “lưỡi liềm bán nguyệt cầm tay”
bên mảnh ruộng khoảnh vườn, lại ra sức thi đua “đắp đê hộ thuỷ” đương đầu với thiên tai, bão lũ.
Khi đất nước có chiến tranh, họ cũng biết xả thân chiến đấu ngăn cản bước chân
quân thù giày xéo mảnh đất quê hương. Câu tục ngữ xưa: “Làm quan họ Đặng,
đánh giặc họ Trần” cất lên
từ bao đời nay chính là biểu hiện cho niềm tự hào sâu sắc về truyền thống tranh
đấu của những người con dòng tộc Đông A trên đất thiêng Thiên Trường.
của nó có quan hệ mật
thiết với ca dao trữ tình về chủ đề khác. Nhiều câu thơ gắn chặt tình yêu quê
hương đất nước với tình cảm gia đình và hạnh phúc lứa đôi. Đặc điểm này góp phần tạo
nên dấu ấn mang đậm màu sắc trữ tình của địa danh trong văn học dân gian Việt Nam.
Nhân vật trữ tình (trong
ca dao tình yêu nói chung và trong ca dao tình yêu gắn với địa danh phủ Thiên
Trường nói riêng) là những chàng trai cô gái đang độ tuổi yêu đương. Họ thường
tìm đến gặp gỡ nhau trong những khung cảnh dân dã, thân thuộc, gần gũi với
thiên nhiên. Khung cảnh ấy vừa đóng vai trò là nơi chốn hẹn hò vừa là bối cảnh
trực tiếp làm cho tình yêu đôi lứa nảy nở, phát triển và giúp họ tạo nên những
vần thơ dạt dào, tình tứ:
Quê anh ở phủ Thiên
Trường
Ở
huyện Giao Thuỷ, ở làng Lạc Nông
Em về anh sẽ trả công
Em ơi anh
trả đầu lòng con trai
Ở đây, phủ Thiên Trường với vẻ đẹp thuần hậu của nó được miêu tả như một
bối cảnh hết sức nên thơ cho câu chuyện tình yêu lãng mạn và lời ước hẹn của
những đôi lứa yêu nhau. Chính sự gắn kết giữa địa danh với đời sống tâm hồn con
người đã tạo nên dấu ấn để thương để nhớ trong lòng người mỗi lúc đi xa:
Anh đi anh nhớ non Côi
Nhớ dòng sông Vị, nhớ người tình chung
Quản
bao non nước ngại ngùng
Lấy
ai san sẻ gánh gồng đường xa
Tóm lại: Ở các
bài ca dao về phủ Thiên Trường xưa, do có sự hài hòa đan xen giữa chất tự sự và yếu tố trữ tình (trong đó yếu tố trữ tình chiếm vị trí chủ yếu), nên chúng ta thấy: phủ Thiên Trường với cảnh sắc sinh động,
tài vật phong phú thật sự đã trở thành đối tượng thẩm mỹ của tác giả dân
gian, bước vào thơ ca dân gian với dấu ấn văn hoá đặc trưng nhất. Phủ Thiên Trường được miêu tả trên nhiều phương diện, đề tài khác nhau (trong đó, đề tài về lịch sử, truyền thống và lễ hội làm nên ý nghĩa lịch sử của địa danh; đề tài về địa danh, phong vật góp phần khẳng định vai trò của bậc thứ kinh trong lịch sử phong kiến Việt Nam thế kỉ XIII - XIV và đặc biệt, đề tài về tình yêu đôi lứa giúp tạo nên màu sắc trữ tình biểu hiện sức sống, sự nên thơ, lãng mạn của địa danh). Vẻ đẹp của nó được phác
lên bằng những nét vẽ rất chân thực, cụ thể, mộc mạc; biểu hiện qua ngôn ngữ
bình dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói nhân dân. Cũng bởi thế, sự hiện hữu của địa danh này trong ca dao rất cụ thể, sinh động, gần gũi, vừa gắn liền với các nhân vật và triều đại lịch sử vừa thân quen, gắn bó với nhân dân địa phương.
PHẠM THỊ MINH TÂM, (2014)
PHỤ LỤC CA
DAO VỀ PHỦ THIÊN TRƯỜNG XƯA
1. Anh đi anh nhớ non Côi
Nhớ
dòng sông Vị, nhớ người tình chung
Quản
bao non nước ngại ngùng
Lấy
ai san sẻ gánh gồng đường xa
2. Ba năm vua mở khoa thi
Đệ Nhất thi hát, Đệ Nhì thi bơi
3. Dù ai buôn xa bán xa
Hai mươi tháng Tám giỗ Cha thì về
Đệ Tam thi đánh cờ người
Phương Bông, Đệ Tứ mồng mười tháng
Ba
4. Đất Tức Mặc chốn Thiên
Trường
Vốn xưa là đất danh hương lưu truyền
Núi non chầu lại bốn bên
Mênh mang nước biếc châu tiên tuyệt
vời
5. Hỏi thăm Tức Mặc mà chơi
Nhà Trần thủa ấy mấy đời đế vương
Dù chẳng kinh sống rẽ
ngang
Ngàn năm luỹ đá, thành vàng khôn lay
6. Làng
Chủ người lắm của giàu
Mười
tám xóm ở, hoa màu xiết bao
Lại
xem tài lực giỏi sao
Đắp
đê, hộ thuỷ nơi nào cũng thua
7. Lệnh sai ông tiết chế ra
Các quan thuỷ bộ cũng là chư dinh
Quê hương ba vạn Nam Thành
Cửa
Son, cửa Lục, cửa Hoành, Đại Giang
Bắc
thì An Nghiệp, An Phong
Tả
cơ, hữu đội đùng đùng kéo sang
Lá
cờ ngọn kiếm gia ban
Đánh Đông dẹp Bắc lấy an nước nhà
8. Nhất
cao là núi Tản Viên
Nhất
sâu là vũng Thuỷ Tiên cửa Vường
9. Non
xanh nước biếc hữu tình
Lúa
đồng bát ngát rung rinh bốn mùa
10. Những
trông lúa chín mà vui
Bông
ngả, bông cúi, bông thời gió lay
Lưỡi
liềm bán nguyệt cầm tay
Lúa
vàng nghìn gốc, muôn cây thu về
11. Phương
Bông đất nước làng mình
Nhờ
ơn phong thổ hiển vinh trên đời
Trai
lành, gái tốt đương thời
Kẻ
được rượu thánh, người ngồi cờ tiên
Lão
già mạnh khoẻ bình yên
Ơn
trên thánh thượng tối linh phù trì
12. Quê anh ở phủ Thiên Trường
Ở huyện Giao Thuỷ, ở làng Lạc Nông
Em về anh sẽ trả công
Em ơi anh trả đầu lòng con trai
13. Tình
sâu không quản đường xa
Nhà
anh cao rộng cũng là nhà em
Nhà
anh có con sông êm
Cho
em tắm mát những đêm mùa hè
14. Xứ Nam nhất có Nam Chân
Đường Vàng, sông Ngọc, quan dân tốt
lành
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Ca dao, tục ngữ Nam Hà, Ty Văn
hoá Nam Hà, 1975
2.
Nguyễn Văn Huyền, Nét đẹp Thiên
Trường, in trong Thiên Trường (Kỉ niệm 10 năm thành lập
CLB Thiên Trường - TP Nam Định) - CLB Thiên Trường, Nam Định, 1993
3.
Trần Thanh Mai (sưu tầm), Thời
Trần và Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, NXB Mũi Cà Mau, 1998
4.
Nguyễn Đăng Na (chủ biên), Văn
học trung đại Việt Nam tập 1, NXB Đại học Sư phạm, H., 2006
5.
Vũ Ngọc Phan, Tục ngữ, ca dao, dân
ca Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, H., 1971
6.
Hoàng Tiến Tựu, Văn học dân gian Việt Nam tập 2, NXB Giáo dục, H., 1990
7.
Phạm Vĩnh, Nam Định, đất nước, con người,
NXB Văn hóa thông tin, H., 1999
8.
Tổng tập văn học dân gian người Việt tập
5 (Truyền thuyết dân gian người Việt), NXB Khoa học
xã hội, H., 2004